Thứ Năm, 23 tháng 2, 2012

CÁC DỰ ÁN ĐÃ THỰC HIỆN

Nhà máy nước Thủy Sơn - Thủy Nguyên - Hải Phòng
Mặt bằng phối cảnh tổng thể

Cải tạo nhà máy nước Việt Trì

Cải tạo nhà máy nước Việt Trì

Cải tạo nhà máy nước Việt Trì

Cải tạo nhà máy nước Việt Trì

Cải tạo nhà máy nước Việt Trì

Tổng quan về nguồn nước mặt ở Việt Nam


I. TỔNG QUAN VỀ NGUỒN NƯỚC MẶT
1. Tổng quan về nguồn nước mặt
1.1. Nhu cầu sử dụng nước sạch ở Việt Nam
          Nước sạch là nhu cầu thiết yếu cho mọi sinh vật, đóng vai trò đặc biệt trong việc điều hoà khí hậu và cho sự sống trên trái đất. Hàng ngày cơ thể con người cần 3 -10 lít nước cho các hoạt động sống, luợng nước này đi vào cơ thể qua con đường thức ăn, nước uống để thực hiện các quá trình trao đổi chất và trao đổi năng lượng, sau đó thải ra ngoài theo con đường bài tiết. Ngoài ra con người còn sử dụng nuớc cho các hoạt động khác như tắm, rửa, sản xuất…
          Nước ta hiện nay nhu cầu sử dụng nước ngày càng tăng do sự phát triển dân số và  mức sống ngày càng tăng. Tuỳ thuộc vào mức sống của người dân và tuỳ từng vùng mà nhu cầu sử dụng nước là khác nhau, định mức cấp nước cho dân đô thị là 150 L/người/ngày (qua điều tra, tại khu vực nội thành Hà Nội, lượng nước tiêu thụ khoảng từ 150 đến 200 lít/người/ngày), cho khu vực nông thôn (nói chung) là 40 – 70 L/người.ngày. Riêng khu vực các huyện ngoại thành Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, mật độ dân cư đông đúc, dân trí cao, kinh tế phát triển lượng nước tiêu thụ cho mỗi người dân đạt ≈ 150 lít/người/ngày.
          Nguồn nước cung cấp cho nước sinh hoạt ở nước ta chủ yếu là nguồn nước mặt được lấy từ các sông hồ..., sau khi qua xử lý sẽ dẫn đến các hộ dân, các khu công nghiệp. Hiện nay, hơn 60 % tổng công suất các trạm cấp nước tại các đô thị và khu công nghiệp trên cả nước dùng nguồn nước mặt với tổng lượng nước khoảng 3 triệu m3/ ngày đêm. Con số này còn tăng lên nhiều trong những năm tới nhằm cung cấp cho các đô thị và khu công nghiệp ngày càng mở rộng và phát triển.
          Dự kiến 50 năm nữa nuớc ta sẽ rơi vào tình trạng thiếu nước trầm trọng. Sự biến đổi của khí hậu toàn cầu sẽ dẫn đến sự suy giảm của nguồn nuớc. Các kết quả nghiên cứu gần đây ở việt Nam cho thấy tổng lượng nuớc mặt của nuớc ta  vào năm 2025 chỉ bằng khoảng 96 %, đến năm 2070 xuống còn khoảng 90 % và năm 2100 con khoảng 86 % so với hiện nay. Với tốc độ phát triển dân số như hiện nay thì đến 2025 lượng nước mặt tính bình quân đầu nguời ở nứơc ta chỉ đạt khoảng 2.830 m3/người.năm. Tính cả luợng nuớc từ bên ngoài chảy vào thì bình quân đạt 7.660 m3 người.năm.
      Tài nguyên nước tại Việt Nam phân bố không đều giữa các vùng. Trên 60% nguồn nước tập trụng ở đồng bằng sông Hồng (lưu vực sông Mê Kông) trong khi toàn phần lãnh thổ còn lại chỉ có gần 40% lượng nuớc nhưng lại chiếm 80% dân số cả nước và trên 90% khối lượng hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Đặc biệt các địa phương vùng miền Đông Nam Bộ và lưu vực Đồng Nai – Sài Gòn, lượng nước bình quân đầu người chỉ đạt khoảng 2.900 m3/người.năm, bằng 28% so với mức trung bình của cả nước.
          Bên cạnh đó, tài nguyên nước của Việt Nam cũng phân bố không đều theo thời gian trong năm và giữa các năm. Lượng nước trung bình trong 4 đến 5 tháng mùa mưa chiếm khoảng 75 – 85% trong khi những tháng mùa khô (kéo dài đến 7 – 8  tháng) lại chỉ có khoảng 15 – 25% lượng nước của cả năm.
          Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao không đi đôi với việc làm tốt công tác bảo vệ môi trường đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực tới tài nguyên nước ở nước ta. Tình trạng ô nhiễm nguồn nước mặt ngày càng tăng về mức độ và quy mô, một số khu vực đồng bằng đã có biểu hiện ô nhiễm do các chất hữu cơ khó phân huỷ và hàm lượng vi khuẩn cao. Các biểu hiện suy thoái, cạn kiệt nguồn nước đang trở lên rõ rệt và phổ biến ở nuớc ta.
1.2. Đánh giá nguồn nước mặt của Việt Nam
          Nước ta có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, trong đó phải kể tới các sông lớn, trong đó có hệ thống sông Mê Kông, tiếp theo là hệ thống sông Hồng, Đồng Nai, sông Mã, sông Cả, sông Hương, sông Thái Bình, sông Thu Bồn, …, với diện tích lưu vực mỗi sông trên 10.00 km2, lưu lượng các sông chính vào khoảng 880 Km3/năm.
          Lượng mưa trung bình hàng năm 1960 mm, tạo ra nước tái tạo được khoảng 324 Km3/năm.
          Mật độ sông phân bố không đều, phụ thuộc vào điều kiện địa hình, khí hậu của từng địa phương.
          Nhìn chung , các sông ở nước ta có trữ lượng lớn có khả năng cung cấp cho các đối tượng dùng nứơc trước mắt và cho tương lai.Tuy nhiên để đảm bảo sử dụng nguồn nước mặt đựơc lâu dài cần phải có chiến lược sử dụng hợp lý và bảo vệ nguồn nước mặt do các tác động của con người gây ra.
          Ngoài nguồn nước mặt là các sông, hồ thì ở miền núi nguồn nước suối cũng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp cho người dân vùng cao. Nguồn nước suối có trứ lượng nước và chất luợng nước thay đổi theo mùa. Mùa mưa nước có độ đục lớn, chứa cặn và cũng chứa nhiều chất hữu cơ. Tuy vậy nhưng tính chất của cặn khác nước sông. Cặn ở đây là cặn thô, dễ lắng đọng, thời gian lắng nhanh hơn nuớc sông.
NHÀ MÁY NƯỚC DƯƠNG KINH-THỦY NGUYÊN - HẢI PHÒNG
1.4. Đặc điểm của các nguồn nước mặt
1.4.1. Nước sông
          Chất lượng nước sông ở Việ Nam thay đổi theo mùa và theo vùng địa lý. Do dòng chảy bào mòn bề mặt khu vực tạo lên các chất trôi theo dòng chảy gồm cát, bùn, phù sa, ...
          Nước sông có hàm luợng cặn cao vào mùa mưa. Tổng lượng cặn do các sông đổ ra biển trung bình hằng năm khoảng 200 – 250 triệu tấn, trong đó 90% đựơc tạo ra vào mùa lũ. Vào mùa lũ, độ đục cao, hàm lượng cặn lớn và thay đổi theo từng thời kỳ. Độ đục cao nhất xuất hiện trong tất cả các tháng của mùa lũ. Các tháng mùa cạn, khi các sông có vận tốc dòng chảy nhỏ nhất thì nước có độ đục nhỏ nhất, đôi khi độ đục gần đạt tiêu chuẩn nước sinh hoạt và ăn uống theo tiêu chuẩn cấp nước cho các đô thị.
          Thành phần chính của nước sông
      - Khoáng chất: Hàm lượng khoáng chất của các sông ở Việt Nam còn  thấp ( 200 – 500 mg/L);
      - Độ pH: Nước ở các sông chính có độ kiềm trung tính (7 – 8);
      - Độ cứng: Nước thuộc nước mềm;
      - Hàm lượng các ion chính: Chủ yếu là các ion Ca2+, Mg2+, K+, SO42-, CL-, HCO3-, ...
1.4.2.Nước hồ
          Nước ta có nhiều hồ tự nhiên như hồ Ba Bể, hồ Núi Cốc... và một số hồ nhân tạo để phục vụ việc tưới tiêu cho nông nghiệp. Đặc biệt một số hồ có dung tich trữ nước lớn của các công trình thuỷ điện Thác Bà, Hoà Bình, Sơn La ...
          Nhìn chung các hồ tự nhiên có trữ lượng nhỏ, chỉ một vài hồ lớn có khẳ năng cung cấp nước cho các đối tượng vừa và nhỏ. Các hồ thuỷ điện có khả năng cung cấp cho các đối tượng lớn.
          Nước hồ có hàm lưọng cặn nhỏ hơn nước sông vì đã được lắng tự nhiên và khá ổn định. Tuy nhiên hàm lượng cặn cũng dao động theo mùa, mùa mưa có hàm lượng cặn lớn, mùa khô hàm lượng cặn nhỏ, có hồ độ trong gần đảm bảo tiêu chuẩn độ trong của nước sinh hoạt và ăn uống. Sự dao động về chất lượng nước thường xảy ra ở các vùng ven bờ và phụ thuộc vào địa hình của vùng ven bờ. Vùng xa bờ và giữa hồ có chất lượng nước ổn định hơn.
          Nước hồ có độ màu cao do; Rong, rêu, tảo. Hàm lưọng chất hữu cơ trong hồ thường cao do xác động thực vật ở quanh hồ gây nên.
          Nhìn chung chất lượng nước hồ tốt, dây chuyền công nghệ xử lý nước có thể đơn giản hơn công nghệ xử lý nước sông, lượng hoá chất dùng để keo tụ ít, do vậy giá thành xử lý nuớc hồ thường rẻ hơn nước sông.
II. CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC NGUỒN BỀ MẶT THÀNH NƯỚC SẠCH
2. Sơ đồ quy trình công nghệ xử lý
          Căn cứ vào các đặc tính của nguồn nước mặt tại Việt Nam, Công ty cổ phần cấp nước sạch Nông thôn đã đề ra quy trình xử lý nguồn nước bề mặt thành nước sạch như sau:




2.1. Quá trình tiền xử lý
          Xử lí sơ bộ nước bề mặt rất quan trọng. Trước khi dẫn nước vào dây chuyền xử lí, Công ty Cổ phần cấp nước sạch Nông thôn tiến hành dùng biện pháp lưu nước trong một hồ chứa nhân tạo với thời gian hợp lý; dùng hệ thống máy trang bị hiện đại để tự động hóa đưa vào nguồn nước một lượng hóa chất nhất định nhằm:
          - Tạo qúa trình lắng tự do của các hạt bụi và các kim loại nặng có nồng độ cao trong nước thô không tách được bằng quá trình keo tụ như: côban, niken, xyanua (CN-), chì,cađimi và các kim loại độc hại khác cùng lắng xuống đáy.
          - Xúc tiến làm sạch tự nhiên để tách được phần lớn các chất hữu cơ nhỏ và các tạp chất vô cơ.
          - CPS thể dùng các biện pháp trao đổi khí nhân tạo để tăng hàm lượng oxy hòa tan trong nước.
          -Xử lý sơ bộ với dịch vôi để duy trì độ cứng của nước từ 8.5-9.00 D.
          Tóm lại, nhờ các quá trình hóa, lý, sinh học tự nhiên xảy ra trong hồ nên chất lượng nước trong hồ tốt hơn nguồn nước đã đưa vào hồ. Nhờ bổ sung quá trình nhân tạo nên nồng độ tảo thấp, độ cứng và nồng độ kim loại độc hại giảm đi, kết quả là giảm đi rất nhiều chi phí cho giai đoạn tiếp theo.
2.1.1. Quá trình khử vi khuẩn virut nhờ các quá trình tự nhiên trong hồ chứa nước
          Các quá trình tự nhiên xảy ra trong hồ chứa nước có thể giảm đáng kể lượng vi sinh vật gây bệnh có mặt trong nước, bởi:
          - Nồng độ chất dinh dưỡng cần thiết cho vi khuẩn trong nước rất thấp;
          - Nhiệt độ của nước nhỏ hơn 370C nên tốc độ sinh sản của vi khuẩn, vi rút rất chậm;
          - Các động vật nguyên sinh, nấm trong nước thường là kẻ thù của vi khuẩn, vi rút;
          - Tia cực tím của ánh sáng mặt trời tiêu diệt vi khuẩn ở lớp bề mặt;
          - Vi khuẩn, vi rút thường bị lắng cùng với các hạt cặn trong nước;
          - Các chất vô cơ, các chất độc trong nước có thể hủy hoại vi khuẩn, độ pH không thích hợp cho vi khuẩn.
2.1.2.  Quá trình ngăn ngừa sự phát triển của tảo
          Để ngăn ngừa sự phát triển của tảo trong các nguồn nước, Công ty có thể sử dụng các phương pháp sau đây:
2.1.2.1. Sử dụng hóa chất để diệt tảo
          Dùng các hóa chất như CuSO4 nồng độ từ 0.1-10mg/l, những hợp chất của clo nồng độ từ 0.3 đến 1.0 mg/l, natri sunfat,....Công ty nghiêm cấm đưa hóa chất có hại cho sức khỏe người tiêu dùng, đặc biệt là các hóa chất bảo vệ thực vật vào các hồ chứa để diệt tảo.
2.1.2.2.  Giảm chất dinh dưỡng cho tảo trong nước
          Các chất dinh dưỡng như nitơ, photphat trong nước có thể được giảm bớt bằng cách ngăn ngừa việc thải nước thải sinh hoạt, chất thải của con người và động vật cũng như các chất thải có chứa NH4+, NO3-, PO43- vào nguồn nước...Công ty đã áp dụng các phương pháp tách chất dinh dưỡng ra nguồn thải như sau:
          -Xử lý sinh hóa kết hợp với khử NO3-  trong điều kiện yếm khí;
          -Clo hóa nâng pH hoặc là làm thoáng khí;
          - Tách photphat ra khỏi nước bằng cách kết tủa với Fe3+, Al3+ hoặcCa(OH)2.
2.1.2.3.  Giảm  cưồng độ ánh sáng tới hồ chứa
          Cường độ ánh sáng xuyên qua nưốc theo phương trình
                           I = Io. E-zd
Trong đó:
          I0- Cường độ ánh sáng ở bề mặt nước;
          I- Cường độ ánh sáng ở dộ sau d,
          z- Hệ số hấp phụ náh sáng của nước.
          Như vậy, muốn giảm được lượng ánh sáng hấp phụ vào nước cần giảm hệ số hấp phụ của nước bằng cách giảm độ đục của nước.
2.2. Quá trình Keo tụ- Tạo bông
          Mục đích của quá trình này nhằm làm kết tủa, kết lắng các hạt rắn rất  nhỏ có trong nước để làm nước trong, sạch và an toàn cho người sử dụng.
          Dung dịch keo là hệ bền (khó lắng) nhờ cấu trúc đặc biệt của các hạt keo. Trong nhóm này phải kể đến virus, các chất có phân tử lượng lớn có nguồn gốc tự nhiên như axit humic. Hạt keo có kích thước nhỏ (< 0,5 mm) nên bằng mắt và hiển vi thông thường không thể nhìn thấy.
          Hạt keo kị nước có độ bền nhờ lớp điện kép tích điện cùng dấu. Hạt keo ưa nước có độ bền nhờ tương tác hạt-nước thông qua các chóm chức ưa nước trên các phân tử hạt keo.
2.2.1. Cấu tạo hạt keo và tính bền của hệ keo
          Theo Atkins  hệ keo là tên gọi cổ điển của các hệ phân tán dị thể của các hạt có kích thước nhỏ hơn 500 nm trong môi trường khác về chất so với chất hạt (ở đây ta chỉ đề cập đến môi trường lỏng).
          Tuy nhiên kích thước không phải là yếu tố quyết định mà cấu tạo hạt keo mới là yếu tố quyết định đến tính bền của các hệ keo.
          Tuỳ vào cấu tạo hạt và nguyên nhân gây ra độ bền ta có hai loại hạt keo: loại ưa dung môi cụ thể là ưa nước (hydrophilic) và loại kị dung môi hay kị nước (hydrophobic).
          Loại ưa nước là các dung dịch cao phân tử với các phân tử chất hữu cơ hoà tan có kích thước lớn và chứa nhiều nhóm chức phân cực, có ái lực cao với các phân tử nước.
          Loại kị nước là các loại keo có gốc ôxit hoặc hyđroxit kim loại. Do kích thước hạt rất nhỏ hệ keo có bề mặt cực lớn, vì vậy về mặt nhiệt động chúng không bền và có xu thế co cụm để giảm năng lượng bề mặt. Mặt khác do hạt keo có cấu tạo đặc biệt của lớp điện kép tạo nên lực đẩy tĩnh điện hạt-hạt nên chúng khó tiếp cận gần nhau, hút nhau và co cụm thành hạt lớn hơn đủ nặng để có thể lắng được nên hệ này có tính bền
          Cấu tạo đặc biệt của hạt keo có thể được làm rõ trên cơ sở ví dụ keo Fe(III):
          Khi hoà tan FeCl3 trong nước sẽ xảy ra phản ứng thủy phân:
FeCl3 + 3H2O ® Fe(OH)3 + 3HCl                         (1)
          Kết tủa Fe(OH)3 co cụm dưới dạng tập hợp hạt [mFe(OH)3] rất nhỏ, được gọi là hạt nhân, nó có khả năng hấp phụ những ion giống các thành phần tạo ra nó, ví dụ hấp phụ các ion Fe3+, tạo thành lớp ion Fe3+ trên bề mặt hạt được gọi là lớp hấp phụ hay là lớp ion quyết định dấu:
[mFe(OH)3] + nFe3+     ®   [mFe(OH)3]nFe3n+                   (2)
          Như vậy, ta có một hạt mới mang điện tích 3n+, nó có xu thế hút 3n các ion trái dấu (Cl-) trong dung dịch để trung hoà điện tích 3n+. Trong thực tế không phải tất cả 3n hạt Cl- bám chặt vào nhân mà chỉ có 3(n-x) hạt Cl- bám vào, lớp ion Cl- bám vào này được gọi là lớp điện tích trái dấu. Cùng với lớp n ion Fe3+ đã hấp phụ cố định ta có 3(n-x) ion Cl- bám theo hạt [mFe(OH)3] tạo thành lớp điện kép gồm 3n điện tích dương và 3(n-x) điện tích âm, kết quả là hạt keo (phần giữa dấu {}) mang điện tích 3x+:
          [m Fe(OH)3]nFe3n+  + 3(n-x) Cl-  ® {[mFe(OH)3]nFe3n+3(n-x)Cl-}3x+              (3)    
          Phần còn lại 3x hạt Cl- “trôi nổi” trong dung dịch ở khoảng không gian gần hạt, tạo nên lớp khuyết tán. Như vậy, nếu viết dưới dạng công thức hoá học hạt keo có cấu tạo tổng thể như sau:
                         {[mFe(OH)3]nFe3n+3(n-x)Cl-}3x+3xCl-
                            hạt nhân
                                             lớp hấp phụ   (lớp ion  quyết định dấu)        
                                                          lớp điện tích trái dấu
                                                                       lớp khuếch tán
                                                  Hạt keo
Trong không gian, hạt keo có dạng như một quả cầu tích điện (hình 2.1).
Theo hình 2.1 hạt nhân là quả cầu gồm tập hợp các phân tử Fe(OH)3(r) nằm ở tâm. Các ion quyết định dấu gắn chặt vào quả cầu. Các điện tích trái dấu ở lớp gần nhất tạo thành lớp ion nghịch và mặt biên A-A, các điện tích trái dấu – phần  còn lại nằm ở lớp khuếch tán khá linh động, vây quanh hạt keo tích điện như đám mây quanh trái đất.

  Tóm lại, để hạt keo trung hoà về điện hạt keo phải có hai lớp điện tích trái dấu có cùng lượng điện tích: lớp hấp phụ (ví dụ, nFe3+) nằm trên bề mặt hạt nhân tích điện dương hoặc âm (trong trường hợp nFe3+ là dương), điện thế tương ứng của nó là thế nhiệt động hay là thế Nernst, jo; tiếp theo là lớp ion trái dấu tích điện ngược lại (âm hoặc dương). Hai lớp điện tích này tạo nên một cấu trúc tương tự như hai bản cực song song của một tụ điện, trong đó một bản cực tích điện dương (hoặc âm) gắn chặt với hạt nhân là lớp ion quyết định dấu, còn bản cực kia tích điện trái dấu và tạo nên lớp điện kép. Đây là cấu tạo thông thường của tụ điện phẳng.
          Công ty đã dùng kĩ thuật xử lí nước cấp từ nước tự nhiên, và kể cả một số công đoạn trong dây chuyền xử lí nước thải thông thường là kĩ thuật lắng – lọc. Để hình dung tốc độ lắng của những hạt không tích điện dưới tác dụng của trọng trường và đánh giá khả năng sử dụng bể lắng để xử lí làm trong nước xem bảng 2.1.
          Ta thấy các kỹ thuật lắng - lọc thông thường trong ngành nước chỉ có hiệu quả nhất định đối với hạt có kích thước cỡ mm, trong trường hợp lọc tốt nhất là lớn hơn 0,1 mm. Đối với những hạt cỡ 0,1 mm trở xuống rất khó lắng và không thể lọc được bằng lọc cát thông thường. Để có thể lọc chúng bằng lọc cát thông thường phải biến chúng thành những hạt lớn hơn. Phương pháp phổ biến để thực hiện việc này là phương pháp keo tụ nghĩa là xử lí nước bằng những chất keo tụ trước khi lắng - lọc.
Bảng 2.1 - Kích thước hạt và thời gian lắng do trọng lực
Loại hạt
Đường kính, mm
Diện tích bề mặt, m2/m3
Thời gian lắng 1 m nước
Sỏi đệm
10
6.102
1 s
Cát lọc
1
6.103
10 s
Cát đen
0,1
6.104
120 s
Bùn
0,01
6.105
2 h
Vi khuẩn
0,001
6.106
8 ngày
Hạt keo
0,0001
6.107
2 năm
Hạt keo
0,00001
6.108
20 năm
Hạt keo
0,000001
6.109
200 năm
Ghi chú:  Tính theo phương trình Stoke
2.2.2. Cơ chế Keo tụ -Tạo bông
          Đối với hệ phân tán có diện tích bề mặt riêng lớn (bụi trong không khí, bùn, phù sa trong nước...) các hạt luôn có xu hướng co cụm lại tạo hạt lớn hơn để giảm năng lượng bề mặt (tương tự hiện tượng giọt nước, giọt thủy ngân luôn tự vo tròn để giảm diện tích bề mặt).
          Hiện tượng các hạt keo cùng loại có thể hút nhau tạo thành những tập hợp hạt có kích thước và khối lượng đủ lớn để có thể lắng xuống do trọng lực trong thời gian đủ ngắn được gọi là hiện tượng keo tụ. Hiện tượng này xảy ra khi thế x được triệt tiêu. Hiện tượng keo tụ có tính thuận nghịch, nghĩa là hạt keo đã keo tụ lại có thể tích điện trở lại và trở nên bền (xem phần tiếp theo). Các hoá chất gây keo tụ thường là các loại muối vô cơ và được gọi là chất keo tụ.
          Một cách khác làm các hạt keo co cụm thành bông cặn lớn dễ lắng là dùng các tác nhân thích hợp “khâu” chúng lại thành các hạt lớn hơn đủ lớn, nặng để lắng. Hiện tượng này được gọi là hiện tượng tạo bông được thực hiện nhờ những phân tử các chất cao phân tử tan trong nước và có ái lực tốt với các hạt keo hoặc các hạt cặn nhỏ. Khác với keo tụ có tính thuận nghịch, các chất có khả năng tạo bông được gọi là các chất tạo bông hay trợ keo tụ, quá trình tạo bông là bất thuận nghịch.
          Như vậy, để kết tủa hệ keo Công ty đã sử dụng các công nghệ sau:
          1. Phá tính bền của hệ keo (do lực đẩy tĩnh điện) bằng cách thu hẹp lớp điện kép tới mức thế x = 0, khi đó lực đẩy tĩnh điện hạt – hạt bằng không, tạo điều kiện cho các hạt keo hút nhau bằng các lực bề mặt tạo hạt lớn hơn dễ kết tủa. Cách này có thể thực hiện khi cho hạt keo hấp phụ đủ điện tích trái dấu để trung hoà điện tích hạt keo. Điện tích trái dấu này thường là các ion kim loại đa hoá trị.
          2. Tạo điều kiện cho các hạt keo va chạm với các bông kết tủa của chính chất keo tụ nhờ hiện tượng hấp phụ - bám dính (hiệu ứng quét).
          3. Dùng những chất cao phân tử – trợ keo tụ để hấp phụ “khâu” các hạt nhỏ lại với nhau tạo hạt kích thước lớn (gọi là bông hay bông cặn) dễ lắng.
          Việc xử lý nước bằng phèn nhôm, FeCl3 và PAA nhằm thực hiện đồng thời một, hai hay cả ba giải pháp trên.


Hình 2.3- Mô hình quá trình keo tụ - tạo bông
(a) Sự đẩy giữa các hạt keo cùng dấu; (b) Hiện tượng co lớp điện kép và sự hút nhau giữa các hạt keo bị trung hoà về điện; (c) Hiện tượng tạo bông nhờ PAA: các hạt keo âm bị phân tử PAA khâu lạithành bông lớn.
2.2.3. Chất keo tụ và các yếu tố ảnh hưởng
2.2.3.1. Sử  dụng hóa chất phèn nhôm Al2(SO4)3.nH2O (n = 14 ¸ 18)
          Đây là chất keo tụ phổ biến nhất, đặc biệt là ở Việt Nam. Khi dùng phèn nhôm làm chất keo tụ sẽ xảy ra phản ứng thuỷ phân:
          Al2(SO4)3 + 6H2O ® 2Al(OH)3¯ + 6H+ + 3SO42-                      (5)

Độ đục (NTU)
 





Hình 2 4- ảnh hưởng của pH và liều lượng đến khả năng gây keo tụ của phèn nhôm
Nếu trong nước thiếu độ kiềm (ĐK), pH sẽ giảm; nếu đủ ĐK sẽ có phản ứng:
Al2(SO4)3 + 3Ca(HCO3)2 ® 2Al(OH)3¯ + 3CaSO4 + 6CO2              (6)
Theo phương trình (6) cứ 342 mg Al2(SO4)3 khan, hàm lượng 100% cần 6 mdl ĐK (HCO3). Nếu ĐK trong nước không đủ thì cần bổ sung vôi hoặc sôđa để bù, nếu không pH sẽ hạ. Lượng kiềm cần (K) tính theo công thức:
K = F – ĐK + 1 = 0,0175F – ĐK + 1           (7)
Trong đó:         
      K       = lượng kiềm cần thêm, mđl/L ;
      F       = lượng phèn, mg/L;
      ĐK    = độ kiềm của nước, mđl/L.
          Để chuyển đổi ra đơn vị g/L, đối với vôi K sau khi tính theo pt. (7) cần nhân với 37; đối với sôđa nhân với 58.
          Khi sử dụng phèn nhôm hay bất kì chất keo tụ nào khác cần lưu ý nồng độ và vùng pH tối ưu (hình 4), pH hiệu quả tốt nhất với muối nhôm là khoảng 5,5 ¸ 7,0.
          Có thể dùng phèn kép KAl(SO4)2.12H2O để thay phèn nhôm, mọi quy luật tương tự phèn nhôm song giá đắt hơn nhiều. Không dùng NH4Al(SO4)2 trong xử lí nước cấp vì gây nhiễm amôni.
          Ở các nước công nghiệp người ta có đòi hỏi rất cao về độ trong của nước lọc. Nếu đo bằng độ đục kế thì độ đục nước lọc phải nhỏ hơn hoặc bằng 0,1 đến 3 NTU (AWWA Task Group 225 M).
          Thậm chí khi nước có độ đục rất thấp 0,1 NTU vẫn có rất nhiều cặn không thể thấy bằng mắt thường. Nó có thể là những hạt cặn rất tinh chưa bị tác động của chất keo tụ hoặc bản thân những mảnh vỡ nhỏ của các bông kết tủa chất keo tụ không thể lắng – lọc được. Người ta đã xác định được ứng với SS = 0,1 mg/L có thể có tới 200 triệu hạt cỡ 0,1 mm là các mảnh của bông cặn Al(OH)3 r = 1,01. Tuy nhiên đây là đại lượng không nguy hiểm vì chỉ ứng với hàm lượng Al3+ bằng 0,06 mg/L (theo QĐ BYT 1329/2002, hàm lượng Al £ 0,2 mg/L).
          Ở Việt Nam phèn nhôm được sản xuất ở các nhà máy hoá chất Việt Trì, Tân Bình ... và có hàm lượng nhôm quy về Al2O3 là khoảng 14% (đối với hoá chất tinh khiết là 15,1%). Do độ ngậm nước rất thay đổi nên cần định lượng hàm lượng nhôm khi sử dụng.
2.2.3.2. Sử dụng muối sắt Fe2(SO4)3.H2O hoặc FeCl3.nH2O (n = 1 ¸ 6)
          Muối sắt chưa phổ biến ở Việt Nam nhưng rất phổ biến ở các nước công nghiệp. Hoá học của muối sắt tương tự như muối nhôm nghĩa là khi thuỷ phân sẽ tạo axit, vì vậy cần đủ độ kiềm để giữ pH không đổi.
Fe2(SO4)3 + 3Ca(HCO3)2 ® 2Fe(OH)3¯ + 3CaSO4 + 6CO2             (8)
          So với phèn nhôm, muối sắt có ưu thế là vùng pH tối ưu rộng hơn, từ 5 đến 9, bông cặn bền hơn và nặng hơn nên lắng tốt hơn, lượng sắt dư thấp hơn.
2.2.3.3. Sử dụng  polime nhôm, sắt
          Sự hình thành các hạt polyme nhôm trong dung dịch được làm rõ từ những năm 1980. Đây là cơ sở khoa học để sản xuất PAC cũng như ứng dụng PAC.
2.2.3.4. Hoá học của quá trình keo tụ
          Thông thường khi keo tụ chúng ta hay dùng muối clorua hoặc sulphát của Al(III) hoặc Fe(III). Khi đó, do phân li và thuỷ phân ta có các hạt trong nước: Al3+, Al(OH)2+, Al(OH)2+, Al(OH) phân tử và Al(OH)4-, ba hạt polime: Al2(OH)24+, Al3(OH)45+ và Al13O4(OH)247+ và Al(OH)3 rắn. Trong đó Al13O4(OH)247+ gọi tắt là Al13 là tác nhân gây keo tụ chính và tốt nhất.
          Với Fe(III) ta có các hạt: Fe3+, Fe(OH)2+, Fe(OH)2+, Fe(OH) phân tử và Fe(OH)4-, polime: Fe2(OH)24+, Fe3(OH)45+ và Fe(OH)3 rắn. Các dạng polime Fex(OH)y(3x-y)+ hoặc FexOy(OH)x+r(2x-2y-r)+
          Trong công nghệ xử lí nước thông thường, nhất là nước tự nhiên với pH xung quanh 7 quá trình thuỷ phân như đã nêu xảy ra rất nhanh, tính bằng micro giây, khi đó hạt Al3+ nhanh chóng chuyển thành các hạt polime rồi hyđroxit nhôm trong thời gian nhỏ hơn giây mà không kịp thực hiện chức năng của chất keo tụ là trung hoà điện tích trái dấu của các hạt cặn lơ lửng cần xử lí để làm chúng keo tụ.
          Khi sử dụng PAC quá trình hoà tan sẽ tạo các hạt polime Al13, với điện tích vượt trội (7+), các hạt polime này trung hoà điện tích hạt keo và gây keo tụ rất mạnh, ngoài ra tốc độ thuỷ phân của chúng cũng chậm hơn Al3+ rất nhiều, điều này tăng thời gian tồn tại của chúng trong nước nghĩa là tăng khả năng tác dụng của chúng lên các hạt keo cần xử lí, giảm thiểu chi phí hoá chất. Ngoài ra, vùng pH hoạt động của PAC cũng lớn gấp hơn 2 lần so với phèn, điều này làm cho việc keo tụ bằng PAC dễ áp dụng hơn. Hơn nữa, do kích thước hạt polime lớn hơn nhiều so với Al3+ (cỡ 2 nm so với nhỏ hơn 0,1 nm) nên bông cặn hình thành cũng to và chắc hơn, thuận lợi cho quá trình lắng tiếp theo. 
2.2.3.4. Chất trợ keo tụ - tạo bông
          Có bốn nhóm chất trợ keo tụ: các chất hiệu chỉnh pH, dung dịch axit silixic hoạt tính, bột đất sét và polime.
      Nhóm 1. Các chất hiệu chỉnh pH
          Như đã nêu quá trình keo tụ thường kèm theo sự tiêu thụ ĐK, nếu độ kiềm của nước nguồn thấp gây giảm pH. Chất hiệu chỉnh pH thường là vôi. Vôi sống là CaO, khi dùng phải tôi nghĩa là hoà vào nước để tạo Ca(OH)2. Do độ tan của vôi thấp (trong khoảng 20¸30 oC, độ tan của Ca(OH)2 bằng 1,65¸1,53 g/L) vôi thường được sử dụng dưới dạng huyền phù Ca(OH)2.
          Sử dụng vôi ngoài khả năng ổn định pH tăng hiệu quả keo tụ bằng phèn còn tăng cường xử lí các axit humic, độ cứng.
      Nhóm 2. Axit silixic hoạt tính (AS)
          AS thường được điều chế tại chỗ bằng cách trung hoà thuỷ tinh lỏng Na2SiO3 bằng axit ở những điều kiện cụ thể. Axit silixic tạo thành thực chất là polime vô cơ, mang điện tích âm. Khi vào nước các phân tử AS âm điện nhanh chóng hút các hạt bông cặn nhỏ mang điện dương của kết tủa hyđroxit nhôm hoặc sắt tạo bông lớn.
      Nhóm 3. Bột đất sét
          Bột sét tác dụng tương tự AS do chúng mang điện tích âm, hơn nữa chúng còn có khả năng, tuy yếu, hấp phụ một phần các chất hữu cơ gây màu, bông cặn tạo thành cũng nặng hơn. Cũng như AS, bột sét ở liều lượng thích hợp dùng tốt khi phối hợp với phèn nhôm và muối sắt.
      Nhóm 4. Các chất tạo bông hữu cơ - cao phân tử
          Đây là nhóm chất có tác dụng tạo bông tốt nhất. Các polyme dùng làm chất tạo bông cho quá trình xử lý nước phải đáp ứng các yêu cầu sau:
      - Tan tốt trong nước;
      - Không độc;
      - Có khả năng tạo bông tốt nhờ ái lực cao đối với hạt keo và bông cặn nhỏ trong nước xử lí.
      Tùy vào bản chất nhóm chức mà người ta phân ra làm 3 loại:
      - Loại không phân ly (nhóm chức amid -CONH2).
      - Loại tạo anion (nhóm chức axit -COO-)
      - Loại tạo cation (nhóm chức amin bậc cao ºN+Cl-)
          Tạo bông hữu cơ bao gồm các hợp chất tự nhiên và các hợp chất tổng hợp.
          Các hợp chất tự nhiên chủ yếu có cấu trúc đuờng, bao gồm:
- Gồm thực vật;
- Pectin;
- Xantan (sản phẩm lên men yếm khí đường mía) ....
          Các hợp chất tổng hợp:
          Thường chúng là các hợp chất cao phân tử, có phân tử khối ở mức 104-105. Chúng có thể được sử dụng riêng, nhưng thường phối hợp với chất keo tụ vô cơ. Khi sử dụng chúng liều lượng muối vô cơ giảm mạnh, bùn sinh ra sẽ ít hơn nhiều so với sử dụng keo tụ vô cơ.
          Thường gặp bốn nhóm hợp chất:
- sản phẩm trùng ngưng melaminphoocmaldehit:
- sản phẩm trùng ngưng của epiclohyđrin và dimetylamin:
- poly(dialyl-dimetyl amôni clorua):
          - Nhóm phổ biến nhất hiện nay là các polyacrylamit (PAA) tan trong nước, hiện nhập ngoại. Liều dùng trong xử lí nước cấp của chúng là 5¸15 phần triệu. Tốt nhất là dùng PAA kết hợp với phèn. Khi dùng PAA, dung dịch PAA thường được đưa vào sau khi khuấy trộn phèn khoảng 1 ¸ 2 phút. Điểm khác cơ bản của quá trình tạo bông là tốc độ tạo bông lớn (trong vòng 2 phút so với phèn cần 20 phút) và kích thước bông cặn cũng như độ bền bông cặn hơn hẳn bông cặn phèn.
          PAA còn được sử dụng phổ biến trong xử lí nước thải, xử lí bùn và nhiều ngành công nghiệp với liều dùng lên tới 5-50 g/m3.
          Nhược điểm chính của PAA là sản phẩm nhập, đắt và phải lựa chọn chủng loại PAA và liều lượng cho phù hợp với từng loại nước bằng thực nghiệm.
Công thức cấu tạo của các loại PAA phổ biến cho ở hình 7.
      Loại không phân li (non-ionic):
      Loại anion (anionic):
      Loại cation (cationic):
Hình 2.5- Công thức cấu tạo của các loại PAA xử lý nước
2.2.3.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình keo tụ
          Ngoài yếu tố bản chất của chất keo tụ (nhất là giá trị và dấu điện tích) và tạp chất có trong nước các yếu tố sau là quan trọng nhất.
      Yếu tố pH
          Mỗi chất keo tụ, dù là muối nhôm hay sắt, đều có khoảng pH tối ưu cho sự hình thành kết tủa hyđroxit tương ứng. Thấp hơn giá trị này các bông Me(OH)3 tạo thành sẽ bị hoà tan bởi axit. Cao hơn giá trị này sẽ tạo thành các muối bazơ khó kết tủa.
          Đối với các chất điện li polime pH sẽ ảnh hưởng đến khả năng phân li của các nhóm chức, gây tăng hoặc giảm mật độ các nhóm chức hoạt động làm thay đổi khả năng tương tác phân tử polime - hạt keo.
      Yếu tố hữu cơ
          Khi xử lý nước bằng chất keo tụ cần lưu ý hiện tượng làm bền keo bởi các chất bị hấp phụ hữu cơ. Các chất hữu cơ tự nhiên (ví dụ, axit humic - AH) phổ biến trong nước có tính làm bền keo rõ rệt nhờ khả năng tạo phức với Fe2/3+, ngoài ra lớp màng chất hấp phụ hữu cơ vây quanh hạt keo ngăn cản tương tác giữa các hạt keo với các tác nhân keo tụ ta chủ động đưa vào, giảm rõ rệt tác dụng làm trong nước của chất keo tụ. Về phần mình, lượng HA trong keo đất có thể đánh giá qua pH, bảng 2.2 cho ta thấy tỉ lệ HA thường gặp trong keo đất phụ thuộc vào pH như thế nào.
          Đây chính là trường hợp ta gặp khi nước có mầu (do chất hữu cơ tan trong nước). Cách xử lý thường là nâng pH bằng vôi để giảm tỉ lệ HA/đất hoặc tiền xử lý bằng các chất ôxy hoá như clo, ôzôn để phá hủy một phần chất hữu cơ trước khi keo tụ.

Bảng 2.2 - Sự phụ thuộc tỉ lệ HA/đất (phần HA/100 phần đất) vào pH môi trường nước
Ph
HA/đất
pH
HA/đất
3,85
9,60
6,95
6,28
5,0
8,18
7,25
5,37
5,1
7,26
8,50
2,05
2.2.3.6. ng dụng
      Quá trình keo tụ – tạo bông thường áp dụng trước lắng hoặc lọc để:
      - Làm trong nước, xử lí một phần độ màu trước khi lọc (xử lí nước cấp): các chất keo tụ trong xử lí nước cấp thường là phèn nhôm, gần đây xuất hiện Poly-Aluminium-Chloride (PAC) là muối nhôm dạng polime, các chất trợ keo tụ PAA. Muối nhôm thường sử dụng ở mức trên 10 mg/L, PAC sử dụng ở mức bằng 1/2¸1/4 muối nhôm, PAA sử dụng ở mức 0,2¸0,5 ppm.
      - Giảm hàm lượng SS trước khi vào xử lí sinh học (xử lí nước thải);
      - Tăng cường khả năng lắng của bể lắng cấp 2 trong xử lí nước thải;
      - Lọc trực tiếp nếu SS không quá cao.
          Trong một số trường hợp các chất keo tụ ở liều cao có thể áp dụng để xử lí màu trong nước thải công nghiệp, ví dụ nước thải dệt nhộm, nước thải giấy.
          Quá trình keo tụ được thực hiện bằng cách trộn nước với chất keo tụ trong các thiết bị khuấy trộn nhanh, sau đó nước được đưa vào bể tạo bông với sự khuấy trộn nhẹ nhàng nhằm tăng cường tiếp xúc hạt - hạt làm cho bông phát triển kích thước, tránh vỡ bông. Tiếp theo nước vào bể lắng thực hiện quá trình tách rắn/lỏng.
          Sự keo tụ - tạo bông được coi là hiệu quả nếu bông cặn tạo ra dễ dàng nhìn thấy bằng mắt thường (kích thước gần 1 mm trở lên), khi đó nước sẽ lắng trong nhanh trong ống quan sát trong vòng 10 - 15 phút để yên. 
          Ngoài những ứng dụng trong xử lí nước chất keo tụ tạo bông còn áp dụng nhiều trong việc xử lí bùn nhằm tăng khả năng tách nước khỏi bùn, áp dụng trong công nghiệp giấy nhằm điều chỉnh đặc trưng lưu biến của hỗn hợp bột...

2.2.3.7. Khuấy trộn
          Khuấy trộn là quá trình mà hầu hết các hệ phản ứng đều cần thực hiện. Mục đích chính của nó là tạo tiếp xúc tối đa giữa các phân tử, ion, các thành phần phản ứng, giảm thiểu cản trở gây ra do khuếch tán chậm.
          Đối với hệ lỏng hoặc rắn(ít)/lỏng(nhiều) ta dùng thuật ngữ khuấy (hoặc cả khuấy trộn), đối với hệ rắn/rắn hoặc rắn(nhiều)/lỏng(ít) ta thường dùng thuật ngữ trộn.
          Ngoài việc tạo điều kiện cho phản ứng xảy ra nhanh hơn, giảm thiểu tác động của yếu tố khuếch tán, khuấy trộn còn có các tác dụng quan trọng khác như:
      - Làm đều hỗn hợp (trong công nghệ vật liệu bột)
      - Làm vỡ các hạt, giọt lớn (trong công nghệ hoá học).
      - Tăng cường tốc độ truyền nhiệt, giảm nhẹ hiện tượng tăng giảm nhiệt độ cục bộ.
          Trong quá trình keo tụ – tạo bông khuấy trộn nhằm:
      - Phân bố nhanh, đều chất keo tụ, tạo bông trong toàn thể tích nước cần xử lý.
      - Tăng hiệu quả xử lí, suy ra giảm chi phí trong quá trình keo tụ.
      - Tăng tiếp xúc hạt – hạt nhỏ, thúc đẩy tạo bông.
      - Làm lơ lửng các hạt rắn trong lỏng (trong hệ xử lí vi sinh) hoặc khí
          Khi đó cần phân biệt: đối với quá trình phản ứng, cần phân bố đều hoá chất nhanh tối đa nên ta sử dụng quá trình khuấy nhanh; đối với quá trình tạo bông hyđroxit kim loại khuấy nhanh sẽ làm vỡ bông cặn, khi đó ta cần khuấy nhẹ nhàng. Hiệu quả quá trình khuấy phụ thuộc vào công suất khuấy.
      Tính công suất khuấy
          Để định lượng quá trình khuấy ta dùng đại lượng građien vận tốc G. Trong giới hạn nhất định, đại lượng G càng lớn sự khuấy càng tiến tới lý tưởng. G chính là hàm của công suất khuấy áp cho một đơn vị thể tích cần khuấy:
                                                 (9)
hoặc hệ quả:               
Trong đó: G = građien vận tốc, s-1
               P = Công suất tuyền vào chất lỏng, w
               V = Thể tích cần khuấy, m3
                          m = Độ nhớt động học chất lỏng, Pa.s
               Q = lưu lượng, m3/s
               V = thể tích cần khuấy, m3
               t0 = thời gian lưu nước, s
          Tuỳ mỗi nhiệm vụ cụ thể ta chọn giá trị G thích hợp. Hiệu quả khuấy (tổng số va chạm hạt – hạt) đo bằng Gto, trong đó to là thời gian lưu nước trong vùng khuấy.
          Bảng 2.3, 2.4 cho ta các dữ liệu kinh nghiệm để tính các đại lượng G, Gto ứng với mỗi quá trình.
Bảng 2.3 – Các giá trị G để tính khuấy nhanh
Các giá trị thời gian lưu to (s)
Giá trị G lựa chọn (s–1)
0,5 (trộn trong ống)
3500
10¸20
1000
20¸30
900
30¸40
800
Lâu hơn nữa
700
Bảng 2. 4 – Các giá trị Gto để tính bể tạo bông
Loại bồn
G (s–1)
Gto
Nước có SS thấp, keo tụ để xử lí cả màu
20¸70
60000¸200000
Nước có SS cao, keo tụ để xử lí SS
50¸150
90000¸180000
Làm mềm, 10% SS
130¸200
200000¸250000
Làm mềm, 39% SS
150¸300
390000¸400000
      Khuấy nhanh
          Đây là quá trình ảnh hưởng mạnh đến hiệu quả sử dụng chất keo tụ. Như đã nêu, quá trình thuỷ phân xảy ra trong micro giây (tài liệu nói là 0,1s), như vậy khuấy càng nhanh càng tốt về khía cạnh đáp ứng yêu cầu phản ứng. Ngược lại nếu ion Al3+ hình thành chưa kịp tiếp xúc hạt keo để thực hiện chức năng trung hoà điện tích, gây keo tụ, nó đã thuỷ phân tạo Al(OH)3, khi đó nó chỉ có thể tác động như một chất tạo bông.
          Phân loại các phương pháp khuấy nhanh:
- Khuấy cơ khí bằng máy khuấy (tốt nhất)
- Khuấy bằng khí nén.
- Khuấy bằng cách bơm chất lỏng tuần hoàn
- Khuấy tĩnh: tận dụng các cơ cấu dòng chẩy, ví dụ: khuấy trong ống trộn; khuấy kiểu rãnh thu – dãn (rãnh Parshall); ”thác” nước; vách đục lỗ, vách đảo chiều ...
      Bồn khuấy trộn cơ học






Hình 2.6 - Bồn khuấy nhanh cơ khí
          Bồn khuấy nhanh thường có thời gian lưu thuỷ lực cỡ 10 ¸ 30 s, G ở mức 600 ¸ 1000 s-1, thể tích giới hạn ở 8 m3. Bồn khuấy thường có hình trụ, để tăng hiệu quả khuấy thường bố trí thêm 2 ¸ 4 vách chắn nhỏ dọc thành bể để tăng hiệu quả khuấy, đôi khi có vách ngang chống tạo xoáy.
          Máy khuấy gồm: động cơ điện, hộp số giảm tốc, trục khuấy, cánh khuấy.
          Cánh khuấy thường dùng loại turbin hoặc mái chèo (xem h. 9). Hoá chất phải cho vào vùng ngay dưới cánh khuấy, nơi được khuấy mạnh nhất.








Mái chèo nghiêng
Chân vịt
Tuốc bin

Hình 2. 7- Một số dạng cánh khuấy
Một số quy tắc kinh nghiệm:
- Độ sâu mức nước: 0,5 ¸ 1,1 lần đường kính bồn;
- Đường kính cánh khuấy: 0,3 ¸ 0,5 lần đường kính bồn, thường £ 1m;
- Tấm chắn dọc rộng ~ 0,1 lần đường kính bồn;
- Nếu mức nước = 1,1 ¸ 1,6 lần đường kính bồn cần lắp 2 tầng cánh khuấy, khi đó khoảng cách giữa hai cánh khuấy (theo trục khuấy) gấp hai lần đường kính cánh khuấy;
- Hai bộ cánh khuấy đồng trục gây ra công suất khuấy »1,9 lần so với một bộ nếu dùng một môtơ.
Bảng2. 5– Các giá trị KT để chọn cánh khuấy
Loại cánh khuấy
KT
Chân vịt một tầng, 3 cánh khuấy
0,32
Chân vịt hai, 3 cánh khuấy
1,00
Tuốc bin, 6 cánh phẳng, có chắn
6,30
Tuốc bin, 6 cánh cong
4,80
Tuốc bin quạt, 6 cánh nghiêng 45o
1,65
Tuốc bin vòng, 6 cánh cong
1,08
Tuốc bin vòng, với stator, không vách chắn
1,12

2.3. Quá trình tạo bông
          Hệ tạo bông ảnh hưởng đến kích thước bông hình thành, do đó ảnh hưởng đến khả năng tách R/L trong hệ tiếp theo.
          Mục đích quá trình tạo bông là khuấy vừa đủ để tạo điều kiện tiếp xúc tốt nhất giữa các hạt cặn nhỏ với nhau, tạo điều kiện cho chúng hút nhau, tạo bông lớn hơn tới mức có khả năng lắng dễ dàng, nhưng mặt khác không được khuấy quá mạnh làm “vỡ” bông cặn mới hình thành, như vậy đại lượng G phải nhỏ và hẹp (bảng 4).
          Do chất lượng nước vào thay đổi nên cần thiết kế sao cho có thể thay đổi G được 2 ¸ 3 lần mà không quá thay đổi kết cấu bể tạo bông. Bông càng lớn, mật độ bông càng cao ta càng cần G lớn (9). Đối với cặn của quá trình làm mềm bằng vôi – sôđa, tỷ khối nặng hơn cặn keo tụ nên G cao nhất. Khi mật độ SS tăng, giá trị G cũng tăng tương ứng.
          Cánh khuấy thường dùng là loại cánh hướng tâm do cánh khuấy loại này tạo G có giá trị đều nhất trong toàn thể tích.
          Có thể khuấy tạo bông bằng các cánh khuấy dạng tấm phẳng, hệ bồn nhiều vách ngăn đảo chiều.






Hình 2.8- Bể tạo bông với cánh khuấy dạng tấm phẳng
          Bồn/bể tạo bông tốt nhất là hình chữ nhật, chia 3 vùng. Đại lượng G phân chia sao cho giảm dần từ đầu vào tới đầu ra (h 2.10). G lấy theo bảng 2.5.
Một số quy tắc kinh nghiệm:
- Cánh khuấy mái chèo có đường kính=0,2 ¸ 0,5 bề rộng bể, tối đa= 3m.
- Tính công suất khuấy dùng biểu thức Rushton:
                                                (10)
Trong đó: P       = Công suất, w
               KT     = Hằng số cánh khuấy
               n        = Tốc độ quay của cánh khuấy, v/s
               Di      = Đường kính cánh khuấy, m
               r        = Tỷ khối nước, kg/m3
               g        = Gia tốc trọng trường, 9,8 m/s2
          Trong các bể không có vách ngăn P thực tế chỉ có thể bằng 1/6 P tính theo pt. (10). Các giá trị KT chọn theo bảng 5.
          Một kiểu bể tạo bông khác, khá đơn giản và hiệu quả là bể tạo bông kiểu Alabama (hình 9). Đây thực chất là một thiết bị phản ứng khuấy trộn bằng thuỷ lực, dòng nước được đảo chiều nhiều lần nhờ hệ thống ống hướng dòng. Hệ thống ống đảo chiều dòng nước có thể được thay bằng hệ vách ngăn với cùng chức năng, khi đó ta gọi là thiết bị phản ứng với vách ngăn đảo chiều.
 









Hình 2 9- Bể tạo bông kiểu Alabama
I.                     Lắng
2.4.Quá trình  lắng và bể lắng
          Khái niệm:  Lắng là quá trình tách cặn lơ lửng khỏi nước nhờ tác động của trọng lực, nó còn được gọi là sa lắng.
          Các chất lơ lửng ở đây có thể là SS tự nhiên, các bông cặn sau keo tụ – tạo bông, kể cả bông vi khuẩn sau xử lý sinh học.
          Công cụ để thực hiện quá trình lắng là bể lắng. Bể lắng có thể được chế tạo dưới dạng thiết bị bằng thép, compozit hoặc xây dựng bằng beton, gạch. Các hình dạng phổ biến nhất là hình trụ vuông hoặc tròn, hình hộp chữ nhật.
Một bể lắng cần có bốn vùng (hình 3.1) [1]:
1.     Vùng nhận và phân phối nước. Đây là đầu vào bể
2.     Vùng lắng
3.     Vùng chứa bùn lắng
4.     Vùng thu nước lắng







Hình 3.1- Mô hình bể lắng và bốn vùng cơ bản
          Vùng nhận nước có chức năng phân phối nước đều sao cho tận dụng được tối đa không gian vùng lắng, ngoài ra phải giảm vận tốc nước vào vùng lắng tới vận tốc thiết kế giới hạn cho vùng lắng vo được gọi là tốc độ giới hạn hay tải bề mặt (đơn vị: m3/m2.ngày). Như vậy cấu tạo của vùng nhận nước phải đảm bảo được các yêu cầu kể trên. Trong thực tế thiết kế vùng nhận nước không được coi trọng nên hiệu quả bể lắng kém hơn so với khối tích bể tới 25%.
          Để thực hiện điều này vùng thu nước thường có vách hướng dòng (có thể kiêm phân phối (hình 3.1). Nước cũng có thể được phân phối và giảm tốc tốt thông qua hệ ống nhiều đầu ra.
          Vùng thu nước lắng có chức năng thu nước đã lắng bớt cặn, chuyển tải đi sang công đoạn tiếp theo. Để thực hiện điều này cần bố trí các máng thu. Để vận tốc nước vào máng không quá cao, điều dẫn tới tạo các dòng chảy mạnh gần máng thu cuốn theo cặn đang lắng người ta đưa ra thông số tải máng thu (đơn vị: m3/m.ngày). Rõ ràng là cặn càng nặng càng khó bị cuốn trôi nên chiều dài máng thu càng ngắn. Bảng 3.1 cho ta sự phụ thuộc tiêu chuẩn thiết kế đối với máng thu cho các loại bông cặn khác nhau.
Bảng 3.1- Các thông số tải máng thu thường gặp [1]
Loại bông cặn
Tải máng thu, m3/m.ngày
Bông đánh phèn với nước ít đục
Bông đánh phèn với nước đục
Bông cặn xử lí độ cứng
143¸179
179¸268
268¸322
          Vùng chứa bùn phải thuận lợi cho việc thu gom, xả bùn và vệ sinh bể thường kì. Thường phải có hố gom bùn bố trí gần cửa nhận nước. Nếu bể gom bùn thủ công thì đáy bể phải có độ dốc  nhất định về phía hố gom. Độ dốc từ hai bên về tâm bể ít nhất phải là 10%, từ đầu thu nước lắng đến đầu nhận nước vào ít nhất là 5%. Nếu gom bùn bằng cần gạt bùn cơ khí thì độ dốc ít là 1%.
          Độ sâu hố gom bùn ít nhất là 0,3 mét. Với bể lắng thiết kế vận hành tốt, với nước keo tụ – tạo bông tốt thì có tới 75% bùn lắng được lắng trong khoảng 1/5 đầu tiên của đường đi của nước, vì vậy vùng lắng bùn tính từ khoảng 2 mét cách vùng nhận nước vào.
2.4.1. Lí thuyết tính tốc độ lắng hạt – Phương trình Stoke
          Bản chất của quá trình lắng có thể xem xét trên cơ sở hiện lượng lắng của hạt cặn có kích thước d, tỷ khối rP trong môi trường chất lỏng, ví dụ nước, có độ nhớt động lực học m.
          Để xây dựng mô hình tính tốc độ lắng hạt ta chấp nhận một số điều kiện sau:
      1. Các hạt cặn có hình dạng và kích thước không đổi, không tương tác, không co cụm với nhau, nghĩa là mỗi hạt có thể coi là hạt độc lập với nhau, sự sa lắng của hạt này không ảnh hưởng đến hạt kia.
      2. Bồn có kích thước rất lớn so với hạt, nghĩa là bỏ qua yếu tố tương tác thành bình.
      3. Chất lỏng có độ nhớt nhất định.
      4. Chất lỏng không chuyển động










Hình 3.2- Lực tác động lên hạt khi sa lắng trong môi trường lỏng
          Khi hạt rơi trong nước (hoặc bất kì chất lỏng nào khác) nó chịu ba lực tác động (hình 3.2) [1].
      - Lực trọng trường Fg có phương kéo hạt xuống đáy bình,
      - Lực cản của chất lỏng gây ra do lực nổi Archimet Fb,
      - Lực ma sát với chất lỏng FD làm chậm chuyển động của hạt.
Tổng hợp các lực cản ta được (h. 3.2)  .
          Khi Fg > Fn ta sẽ có hạt chuyển động nhanh dần với gia tốc a xác định theo định luật Niutơn (F = ma).
Phương trình cân bằng lực:
trong đó:
      m       = khối lượng hạt,
      a        = gia tốc sa lắng,
      mũi tên là kí hiệu vector.
          Bỏ qua dấu vector, lưu ý hướng tác động của các lực, viết phương trình Niutơn cho hạt khảo sát ta có:
ma = Fg – Fb – FD                                                       
hay:                   ma = (Fg – Fb) – FD                                                         (3.1)
Tổng (Fg – Fb) có ý nghĩa như lực trọng trường hiệu dụng Fg’ kéo hạt xuống.
          Trong trường hợp lực trọng trường hiệu dụng lớn hơn lực ma sát FD hạt sẽ rơi với gia tốc a như pt. (3.1).
          Như vậy vận tốc rơi của hạt sẽ tăng theo thời gian chuyển động hạt, điều này dẫn tới FD tăng, tới thời điểm khi (Fg – Fb) = FD thì gia tốc = 0, khi đó hạt chuyển động với vận tốc không đổi.
          (Fg – Fb) = Fg’ là lực trọng trường hiệu dụng kéo hạt xuống xác định bằng:
               Fg’ = (rp - r)gVp                                                             (3.2)
trong đó:
      Fg’      = Llực trọng trường hiệu dụng gây ra sự sa lắng của hạt,
      rp      = Tỷ khối của hạt,
      r        = Tỷ khối của nước,
      g        = Gia tốc trọng trường, = 9,8 m/s2
      VP      = Thể tích hạt.
Lực ma sát có xu thế kìm sự sa lắng bằng:
               FD = rCDAPv2                                                                                                       (3.3)
trong đó:
      CD     = Hệ số ma sát giữa hạt đang rơi với môi trường lỏng,
      v        = Tốc độ rơi của hạt,
      AP      = Thiết diện hạt vuông góc với hướng rơi của hạt.
          Hệ số ma sát CD là một hàm phức tạp, ví dụ, đối với hạt rơi trong dòng chảy tầng, Stoke đưa ra công thức lực ma sát, phần trong ngoặc là hệ số ma sát CD:
                FD = (3pmd)v                                                                           (3.3a)
          Trong đó d là đường kính hạt; m là độ nhớt động lực học của chất lỏng.
          Kết hợp các pt. (3.1) đến (3.3) ta có:
               rpVpa = rpVp= (rp - r)gVp - rCDAPv2                                 (3.4)
          Khi hạt sa lắng trong môi trường nước dưới tác dụng của tổng lực đã nêu hạt chuyển động nhanh dần, đồng thời các lực cản tăng theo v2 đến khi lực sa lắng (lực trọng lực hiệu dụng) cân bằng lực cản (lực ma sát) ta có a = 0 hay vận tốc bằng hằng số, như vậy:
               (rp - r)gVp = rCDAPv2                                                                                (3.5)
Từ đây ta tính được v, tốc độ lắng của hạt:
                                                                (3.6)
          Trường hợp đơn giản nhất, nếu hạt là hình cầu đường kính d, thay các giá trị Vp, Ad bằng các biểu thức chứa d (VP = (1/6)pd3; AP = (1/4) pd2); ta có:
                                                                  (3.7)
          Trong thực tế đại lượng CD – hệ số ma sát không phải hằng số, nó tăng khi tốc độ chuyển động của chất lỏng gần hạt tăng và phụ thuộc chỉ số Reynold, Re, chỉ số không thứ nguyên nói lên chế độ chảy của chất lỏng. Đối với hạt hình cầu ta có:
                                                                              (3.8)
Giá trị của Re phụ thuộc vào ứng với các chế độ chảy [1]:
      Re < 1:                  chảy tầng
      Re > 1000:             chảy rối
      1 < R < 1000:        vùng trung gian
Với các hạt hình cầu ta có thể sử dụng các giá trị thực nghiệm:
      Nếu Re < 1            ta có CD = 24/Re                      (3.9)
      Nếu 1 < R < 1000 ta có CD = 24/Re + 3/Re0,5 + 0,34 (3.10)
      Nếu R > 1000        ta có CD = 0,34 đến 0,4             (3.11)
          Ngoài ra CD phụ thuộc hình dạng hạt, yếu tố quyết định AP thể hiện qua sự phụ thuộc vào yếu tố (AP/VP): hạt càng khác hình cầu (AP/VP càng lớn) thì CD càng lớn.
          Khi đó, kết hợp pt. (3.7(3.9) ta được phương trình Stoke cho phép tính tốc độ lắng v của hạt:
                 EMBED Equation.3                                                      (3.12)
          Như vậy để hạt lắng nhanh độ chênh lệch (rp - r) là rất quan trọng, điều này có nghĩa là chất hạt càng nặng hạt lắng càng nhanh.
          Trong thực tế các hạt không hỡnh cầu lí tưởng như mô tả, hình dạng của chúng rất khác hình cầu, kích thước đa dạng, ta gọi là hệ đa phân tán. Chúng không những có thể tương tác với nhau tạo bông lớn (hiện tượng keo tụ-tạo bông, hiện tượng tạo bông của vi khuẩn trong bể lắng cấp 2) mà chúng còn tương tác với chính môi trường nước, khi đó không thể áp dụng pt. (3.12). Vì vậy, để thuận lợi cho việc phân tích quá trình lắng người ta phân ra bốn kiểu lắng tuỳ mức độ tương tác hạt-hạt.
2.4.2. Phân loại các kiểu loại lắng
      2.4.2.1 Lắng loại 1
          Đây là trường hợp các hạt lắng không có tương tác hạt-hạt. Đây là các  trường hợp lắng cặn tự nhiên thô, cặn nồng độ thấp, không có tương tác hạt-hạt và tương tác hạt-nước có thể bỏ qua.
          Kiểu lắng này hay gặp ở các hệ tiền xử lí để lắng cát, và các hạt thô.
      2.4.2.2.  Lắng loại 2
          Đây là kiểu lắng của các hạt có khả năng bám kết vào nhau tạo bông lớn, khi đó hạt tăng dần về kích thước, khối lượng dẫn đến tốc độ lắng tăng. Hiện tượng lắng loại hai hay gặp khi sử dụng chất keo tụ – tạo bông.
      2.4.2.3. Lắng loại 3
          Còn gọi là lắng bị cản hay lắng vùng. Khi nồng độ cặn tương đối cao, khi đó tương tác hạt-hạt làm chậm quá trình lắng, cả khối hạt dường như cùng lắng, khi đó ta sẽ thấy rõ biên phân cách nước/bùn. Hay gặp trong các bể lắng cấp hai của hệ xử lí sinh học.
      2.4.2.4.  Lắng loại 4
          Đây là trường hợp tương tác hạt-hạt mạnh đến mức có thể hình thành cấu trúc không gian của bùn, nó xuất hiện khi nồng độ bùn cặn cao, sự lắng xảy ra đồng nghĩa với sự nén bùn làm thoát nước trong cấu trúc bùn. Động lực của quá trình là sự tăng khối lượng liên tục của bùn nhờ sự bổ xung bùn mới liên tục từ lớp nước phía trên do sa lắng các kiểu 1, 2, 3. Hay gặp ở lớp dưới của lớp bùn trong bể lắng cấp 2 (hệ xử lí sinh học), bể nén bùn
2.4.3. Các dạng bể lắng cơ bản
           Hiện nay có rất nhiều dạng bể lắng vì vậy Công ty chỉ trình bày các dạng bể lắng cơ bản nhất, phổ biến nhất trong xử lý nước cấp: Bể lắng đứng, bể lắng ngang và bể lắng li tâm.
2.4.3.1. Bể lắng đứng
          - Hình dạng, cấu tạo: Hình trụ vuông hoặc tròn. Đáy chóp tạo góc ít nhất 50o so với mặt bằng. Thường đi kèm với khoang phản ứng đổi chiều dòng nước.
          - Nguyên tắc hoạt động: Nước chảy theo phương thẳng đứng từ dưới lên trên còn các hạt cặn rơi ngược chiều với chiều chuyển động của dòng nước từ trên xuống. Khi xử lý nước không dùng chất keo tụ, các hạt cặn có tốc độ rơi lớn hơn tốc độ dâng của dong nước sẽ lắng xuống được, các hạt cặn có tốc độ rơi nhỏ hơn hoặc bằng tốc độ dâng của dòng nước sẽ chỉ lơ lửng hoặc bị cuốn theo dòng nước lên phía trên bể. Khi sử dụng nước có dùng chất keo tụ, trong nước có chứa các hạt cặn kết dính. Do đó ngoài hạt cặn có tốc độ rơi ban đầu lớn hơn tốc độ dâng của dòng nước lắng xuống được và các hạt cặn khác cũng lắng được. Nguyên nhân là do trong quá trình các hạt cặn có tốc độ rơi nhỏ hơn tốc độ dâng của dòng nước bị đẩy lên trên, chúng kết dính với nhau và tăng dần kích thước do đó tốc độ rơi lớn hơn tốc độ chuyển động của dòng nước làm cho nó lắng xuống được.
          Đầu tiên nước chảy vào ống trung tâm ở giữa bể rồi đi xuống dưới qua bộ phận hãm làm triệt tiêu chuyển động xoáy rồi vào bể lắng. Trong bể lắng đứng, nước chuyển động từ trên xuống, cặn từ trên xuống đáy bể. Nước đã lắng được thu vào máng bố trí xung quanh thành  bể và được đưa sang bể lọc.
          - Thông số thiết kế:
          Để xây dựng các tiêu chuẩn thiết kế bể lắng đứng (h. 3.3), khi đó ta có hai khái niệm: tốc độ lắng cặn vPtốc độ dâng nước vo.
          Như vậy, điều kiện lắng sẽ là:
                         vP > vo                                                         (3.13)
          Nếu chiều cao cột nước là H, vậy thời gian để nước dâng từ đáy tới máng thu t tính theo phương trình:
                         t =                                                          (3.14)
          Mặt khác t chính là thời gian lưu nước tính bằng:
                         t =                                                  (3.15)
          Trong đó:    V       = thể tích nước trong vùng lắng
               Q       = lưu lượng
          Vì thể tích vùng lắng V = HA, trong đó A là thiết diện đáy, phối hợp với pt. (3.14) và (3.15) ta có:
          Từ đây rút ra biểu thức xác định vo:
                         vo =  (pt Hazen)
          Cơ sở để tính bể lắng đứng là phương trình Stoke (pt. 3.12) nghĩa là tốc độ dòng nước dâng phải nhỏ hơn tốc độ lắng bùn. Sơ đồ bể lắng đứng cho ở hình 3.3.








Hình 3.3 - Sơ đồ bể lắng đứng
          Người ta thường thiết kế bể lắng đứng với diện tích mặt nước không quá 100 m2, có tỷ lệ giữa đường kính và chiều cao ít hơn hoặc bằng 1,5. Trên hình 3.3 là sơ đồ bể lắng đứng. Đáy chóp của nó có độ dốc ít nhất là 500 nếu người ta xử lý nước bằng chất keo tụ, và 600 trong trường hợp xử lý độ cứng.
          Ở tâm bể lắng đứng là ống hình trụ đóng vai trò buồng phản ứng. Nước theo ống dẫn vào buồng phản ứng (nếu cho hoá chất keo tụ) và theo ống trụ đi xuống, toả đều ra 4 phía rồi đi lên.
          Việc thu nước được thực hiện nhờ hệ máng thu bố trí ở xung quanh gần mép trên bể. Nếu diện tích mặt nước của bể lớn hơn 12 m2 thì nên bố trí thêm các máng thu theo đường hướng tâm, nếu nó lớn hơn 30 m2 thì cần 6 ¸ 8 máng thu. Máng thu nước nên có mặt tràn hình răng cưa hoặc đục lỗ f 20 ¸ 30 mm để nước qua. Diện tích máng thu tính sao cho tốc độ nước chảy trong máng bằng 0,6 ¸ 0,7 m/s. Cặn ở đáy bể được xả định kỳ nhờ áp suất thủy tĩnh bằng cách mở van xả đáy hoặc dùng bơm hút bùn.
          Tốc độ dâng nước trong bể lắng đứng phải nhỏ hơn tốc độ lắng cặn (xác định bằng thực nghiệm) và không lớn hơn 0,6 mm/s (bảng 3.2).
Bảng 3.2 - Sự phụ thuộc tốc độ dâng nước v (mm/s) trong lắng đứng vào chất lượng nước thô khi xử lý phèn

Loại nước
v (mm/s)
Nước màu, CLL < 50 mg/l
0,35 ( 0,45
Nước đục, CLL = 50 ( 250
0,45 ( 0,50
                              > 250
0,50 ( 0,60
Nước đục không đánh phèn
0,12 ( 0,15

Ghi chú: nếu có chất tạo bông, v tăng thêm 15 ( 20%
          Ứng dụng: Trạm có công suất không quá 3000 m3/ngay, khi xử lý bằng chất keo tụ. Lắng đứng hay dùng trong công nghệ xử lý nước cấp quy mô nhỏ.
2.4.3.2. Bể lắng ngang
          - Hình dạng, cấu tạo: Hình hộp chữ nhật làm bằng gạch hoặc bêtông cốt thép. Tỷ lệ: L:H >= 10. Độ dốc ít nhất 0.02 theo chiều dọc và 0.05 theo chiều ngang
          - Nguyên lý hoạt động: Nước chuyển động theo chiều  ngang từ đầu bể đến cuối bể. Với tốc độ nước v đều khắp mọi điểm trong vùng lắng và giả sử  các hạt đều cùng một vị trí xuất phát (điểm vào bể), khi đó dựa vào kích thước của từng hạt mà hạt đó có thể lắng được hay không. Xét một hạt có quỹ đạo rơi (có dạng đường thẳng- xét trường hợp lí tưởng) đúng bằng chiều dài của đáy bể và có độ cao bằng chiều cao bể tương ứng với tốc độ lắng của hạt là Vp khi đó hạt đó lắng được. Như vậy nếu các hạt cặn có tốc độ lắng nhỏ hơn Vp sẽ không lắng được. 
       - Thông số thiết kế:





Hình 3.4- Mô hình bể lắng ngang
1-nước thô vào,  2- máng thu nước,  3 - xả cặn bùn
          - Các thông số thiết kế cơ bản của bể lắng ngang
- Thời gian lưu không ít hơn 4 giờ
- Tốc độ nước có keo tụ v = 3 ¸ 13 mm/s. Nếu không sử dụng chất keo tụ phải giảm v còn 2 ¸ 3 mm/s.
- Tỷ lệ L : B ³  10
- Chiều cao H = 3,0 ¸ 5,0 m
- Độ dốc theo chiều nước chảy tối thiểu 0,02; theo phương ngang tối thiểu 0,05.
          - Ứng dụng: áp dụng cho trạm xử lý có công suất 3000m3/ngày.đêm (nếu dùng phèn), và công suất bất kỳ cho trạm xử lý không dùng phèn.
2.4.3.3. Bể lắng li tâm
          - Hình dạng, cấu tạo: Hình trụ tròn, đáy côn, có cần gạt thu bùn
          - Nguyên lí hoạt động:










Hình 3.5- Bể lắng ly tâm
          - Nước vào thuờng được đưa theo ống trung tâm, từ khoang trung tâm nước theo các tia bán kính chảy vào các máng thu bố trí quanh bể hình tròn. Bể lắng ly tâm thường được áp dụng cho các nguồn nước có hàm lượng SS cao, nhất là trong xử lí nước thải. Để thu gom bùn bể được trang bị cần gạt bùn cơ giới gạt sát đáy đốc dồn bùn về hố thu ở tâm bể. Từ  đây bùn được xả bằng áp suất thủy tĩnh hoặc bằng bơm hút bùn (hình 3.5).
          Đường kính bể lắng ly tâm thường gặp từ 5 ¸ 60 m, độ sâu 3 ¸ 5 m ở tâm và 1,5 ¸3m ở thành bể. Tốc độ quay của cần gạt bùn là 3 ¸ 3,5 v/h với động cơ đẩy cỡ 1,5 ¸ 2,0 kW
          - Thông số thiết kế: Dựa trên cơ sở thực nghiệm
          - Ứng dụng: áp dụng khi lượng cặn lớn
2.5. Quá trình Lọc
          Khái niệm:  Lọc là quá trình làm sạch nước thông qua các vật liệu lọc nhằm tách các hạt cặn lơ lửng, các thể keo tụ và cả vi sinh vật trong nước, kết quả là sau quá trình lọc chất lượng nước tốt hơn cả về mặt lý học, hoá học, sinh học.
          Trong các hệ xử lý nước cấp lọc là quá trình quan trọng bậc nhất vì nó trực tiếp quyết định chất lượng nước sản phẩm, trong xử lí nước thải lọc chỉ áp dụng trong những trường hợp nhất định. Quá trình lọc được thực hiện ở hai công đoạn trong dây chuyền xử lý: một là lọc thô ở ngay điểm bắt đầu thu nước, khi đó quá trình lọc mang tính phòng ngừa: chắn rắc, lọc cặn thô, rêu tảo ... để bảo vệ hệ thống xử lý ở sau và hai là ở công đoạn áp trót, trước khử trùng: lọc để đảm bảo độ trong - yếu tố hàng đầu của chất lượng nước.
2.5.1.  Lí thuyết lọc
          Đối với các kĩ thuật lọc nước thông thường (không kể lọc màng NF và RO) lọc là quá trình tách chất rắn (cặn, cặn lơ lửng) ra khỏi nước khi cho nước đi qua môi trường vật liệu lọc có thể giữ được cặn nhưng cho nước đi qua. Kết quả là thu được nước trong, không chứa (hoặc chứa rất ít) cặn lơ lửng.
          Lọc thông thường không xử lý được các tạp chất tan như các chất hữu cơ gây màu, mùi (trừ khi lọc bằng than hoạt tính), các khoáng chất hoà tan. Tuy  nhiên nếu tiền xử lý thích hợp vẫn có thể xử lí được một phần chất hữu cơ tan (ví dụ xử lý một phần chất màu bằng phèn) hoặc toàn bộ tạp chất (ví dụ: Fe ở dạng sắt (II) hoà tan sau làm thoáng, ô xy hoá tốt trở thành kết tủa sắt (III) lọc được).
          Với sự xuất hiện của kĩ thuật lọc màng NF và RO, ngày nay kĩ thuật lọc cho phép tách cả các chất hoà tan ở quy mô phân tử, ion.
          Trong dây chuyền xử lý nước cấp thông thường, công đoạn lọc đóng vai trò quyết định đến chất lượng sản phẩm và thường đứng áp trót trước công đoạn clo hoá để sát trùng-bảo quản trước khi nước vào bể chứa để bơm vào mạng.
          Đối với các kĩ thuật lọc nước thông thường (không kể lọc màng NF và RO) lọc là quá trình tách chất rắn (cặn, cặn lơ lửng) ra khỏi nước khi cho nước đi qua môi trường vật liệu lọc có thể giữ được cặn nhưng cho nước đi qua. Kết quả là thu được nước trong, không chứa (hoặc chứa rất ít) cặn lơ lửng.
          Lọc thường thường không xử lý được các tạp chất tan như các chất hữu cơ gây màu, mùi (trừ khi lọc bằng than hoạt tớnh), các khoáng chất hoà tan. Tuy  nhiờn nếu tiền xử lý thích hợp vẫn có thể xử lí được một phần chất hữu cơ tan (ví dụ xử lý một phần chất màu bằng phèn) hoặc toàn bộ tạp chất (ví dụ: Fe ở dạng sắt (II) hoà tan sau làm thoáng, ô xy hóa tốt trở thành kết tủa sắt (III) lọc được).
          Với sự xuất hiện của kĩ thuật lọc màng NF và RO, ngày nay kĩ thuật lọc cho phép tách cả các chất hoà tan ở quy mô phân tử, ion.
          Trong dây chuyền xử lý nước cấp thông thường, công đoạn lọc đóng vai trò quyết định đến chất lượng sản phẩm và thường đứng ở trước công đoạn clo hóa để sát trùng-bảo quản trước khi nước vào bể chứa để bơm vào mạng.
2.5.2.  Các cơ chế lọc và các hiện tượng liên quan
          Tùy bản chất của cặn cần lọc, tuỳ kỹ thuật và vật liệu lọc áp dụng có thể gặp các cơ chế lọc và hiện tượng sau: lưu giữ, bám dính và hiện tượng đánh thủng…
          Các cơ chế lưu giữ
          Cơ chế lưu giữ có thể hiểu là cơ chế “lọc” thuần tuý vật lí được ghi nhận trong trường hợp lọc qua lưới lọc, màng lọc có kích thước lỗ đã định. Trong trường hợp này lớp lọc hoạt động theo nguyên lý cái rây bột: hạt cặn nhỏ đi qua, hạt lớn bị lưu giữ lại. Trong thực tế, hạt nhỏ hơn đường kính lỗ trống cũng có thể bị lưu giữ lại nếu đồng thời nhiều hạt nhỏ cùng qua một lỗ trống, hoặc hạt cần lọc bị tăng kích thước do nhiều nguyên nhân khác nhau.
          Trong trường hợp này, các cơ chế sau có thể lần lượt hoặc đồng thời xuất hiện:
·          Nhiều hạt nhỏ chen nhau cùng qua khe trống nên bị kẹt lại
·          Hạt nhỏ trong khi theo dòng chảy qua lỗ trống bị cọ xát vào lớp vật liệu lọc rắn và bị giữ lại do lực bề mặt (hấp phụ).
·          Do giá tốc trọng trường, hạt cặn lắng trên bề mặt vật liệu lọc ở khu vực không có lỗ trống...
          Những cơ chế này xuất hiện trong cả kỹ thuật lọc màng và kỹ thuật lọc bằng lớp vật liệu lọc dạng hạt.
          Cơ chế bám dính
          Khi tốc độ dòng chảy không lớn, các lực bề mặt có thể gây ra sự bám dính các hạt cặn trên bề mặt vật liệu lọc. Bản chất các lực bề mặt khá phức tạp, phổ biến là lực hút tĩnh điện và lực Van dec Val (Van der Waals).
          Hiện tượng đánh thủng
          Trong quá trình lọc qua lớp vật liệu lọc hạt, do các cơ chế nêu trên nên khe trống giữa các hạt vật liệu lọc bị lấp đầy dần bởi các hạt cặn bị lưu giữ hoặc bám dính. Như vậy thiết diện chảy thực tế bị thu hẹp dần, tốc độ dòng chảy qua khe sẽ tăng và kéo theo các hạt cặn nhỏ vào sâu trong lớp vật liệu lọc hạt, thậm chí hạt cặn bị kéo theo nước lọc. Trường hợp này nước lọc giảm chất lượng, ta nói lớp lọc bị đánh thủng.
          Hiện tượng “tắc” và sự phục hồi lớp vật liệu lọc
          Hiện tượng “tắc” thiết bị lọc do cặn bít dần các khe, lỗ trống mà nước có thể chảy qua theo các cơ chế đã nêu. Trong trường hợp này vẫn có thể tiếp tục lọc bằng cách tăng áp suất.  Ví dụ: nếu lọc trọng lực như đối với bể cát ta có thể để mực nước trên lớp vật liệu lọc dâng tới mức độ vài mét. Đối với các thiết bị lọc áp lực với lớp vật liệu lọc là cát người ta có thể nâng áp lực tới vài ba atm.
          Thông thường, khi thiết kế thiết bị lọc người ta chấp nhận một mức độ “tắc” nhất định. Để vượt qua hiện tượng này người ta tăng mực nước hoặc mức áp áp vào lớp vật liệu lọc để giữ tốc độ lọc không đổi.
          Khi tổn thất áp vượt quá mức độ đã định (do sự tích luỹ lớp bùn cặn) cần phục hồi lại lớp vật liệu lọc về trạng thái ban đầu bằng cách rửa sạch lớp vật liệu lọc khỏi bùn cặn, ta gọi là rửa lọc. Cách rửa phụ thuộc vào loại vật liệu và kỹ thuật lọc áp dụng.
          Rửa lọc:   Bằng kĩ thuật Rửa ngược là phổ biến nhất và là kỹ thuật duy nhất đối với các thiết bị lọc dùng lớp vật liệu dạng hạt. Môi trường để rửa thường là nước sạch và ở các trạm lớn là hỗn hợp khí - nước. Đối với các loại màng lọc như màng lọc micro, nano ... sau rửa ngược thường phải xử lý hoá chất bổ xung.
          Rửa ngược được thực hiện theo chiều ngược lại như sau: đóng van thu nước sạch, bơm nước sạch hoặc hỗn hợp khí – nước với cường độ rất cao vào đáy bể qua hệ phân phối đều, nước rửa cường độ cao sẽ làm nâng các hạt vật liệu lọc lên, lớp hạt “sôi” lên , cọ vào nhau để rửa sạch bùn bám trên bề mặt, nước bùn rửa được thu gom qua các máng phân phối vào túi chứa bùn, qua van xả ra ngoài. Quá trình kết thúc khi nước rửa trở nên trong, không chứa bùn.
          Để kiểm soát hoạt động của một hệ lọc ta cần theo dõi một trong hai thông số hoặc cả hai, đó là tổn thất áp lực khi lọc và độ đục của nước sản phẩm.

2.5.3. Phân loại
          Kĩ thuật lọc cát thường được phân loại theo tốc độ lọc, theo động lực của quá trình lọc, theo chiều của dòng chảy, theo số loại vật liệu lọc.
          Về môi trường vật liệu lọc có hai nhóm chính:
     Nhóm vật liệu lọc dạng hạt, môi trường lọc là lớp vật liệu lọc dày
     Nhóm vật liệu dạng màng, môi trường lọc có độ dày không đáng kể.
          Theo tốc độ lọc ta có:
Lọc nhanh: khi tốc độ lọc khoảng lớn hơn 5 m/h
Lọc chậm: khi tốc độ lọc bằng 0,1 ¸ 0,3 m/h
          Theo động lực của quá trình lọc
          Để nước qua được lớp cát dày nó cần có thế năng nhất định, thế năng này có thể do bản thân trọng lượng cột nước hoặc do bơm nén, như vậy ta có:
Lọc tự chảy hay lọc trọng lực: nước chảy nhờ trọng lực
Lọc áp lực: nuớc chảy nhờ bơm nước tạo áp
Theo loại vật liệu lọc:
Lọc một lớp: chỉ dùng một loại vật liệu lọc
Lọc đa lớp: dùng hai loại vật liệu lọc khác nhau vể chất trở lên
Phân loại theo chiều dòng chảy ta có:
Lọc xuôi: nước chảy từ trên xuống, thu nước lọc ở đáy
Lọc ngược: nước chảy từ dưới lên, thu nước lọc trên miệng bể
Theo đặc thù của kỹ thuật lọc và cách hình thành màng lọc thứ cấp:
Lọc tiếp xúc;
Lọc nổi;
Lọc diatomit.
2.5.4. Các kỹ thuật lọc phổ biến trong xử lí nước cấp
2.5.4.1. Lọc nhanh
          Giới thiệu chung:  Trong quá trình lọc nhanh, nước cần xử lí đi qua lớp hạt có kích thước trung bình-lớn,vận tốc cao. Người ta chia bề dày lớp vật liệu lọc thành nhiều lớp mỏng với kích thước khác nhau, ban đầu đa số cặn bẩn trong nước tiếp xúc với bề mặt trên cùng của lớp vật liệu, theo thời gian bề dày của lớp màng cặn tăng dần, độ bề liên kết của lớp màng và vật liệu lọc yếu đi đến lúc lực này bị phá vỡ thì một phần cặn bẩn bị cuốn sâu hơn xuống các lớp hạt lọc bên dưới và lâu dần thì cần phải thay lớp vật liệu khác.
          Vận tốc lọc nhanh thông thường là 1,5.10-3 m/s. Nước đưa qua lớp vật liệu lọc từ trên xuống hoặc từ dưới lên, sử dụng dòng chảy từ trên xuống  có ưu điểm là tạo được động lực cho quá trình nhờ chênh lệch áp suất trước và sau khi qua lớp vật liệu lọc nhờ áp lực trọng trường. Nhược điểm  của phương pháp này là cần áp lực mạnh của dòng nước từ dưới lên khi rửa lọc, các hạt nhỏ bị đẩy lên trên, các hạt to giữ lại ở phía dưới, khi nước cần lọc tiếp xúc với hạt bé trước thì dễ bị tắc mao quản lọc.
          Cấu tạo bể lọc
          Gồm các thành phần: ống thu nước bẩn, ngăn trung gian, máng tràn, vật liệu lọc, ngăn thu nước sạch, ống thu nước sạch.
- Vật liệu lọc: thường dùng là cát tư nhiên, cát thạch anh nghiền, đá hoa nghiền…Tiêu chuẩn lựa chọn vật liệu lọc:
+/ Bảo đảm thành phần hạt theo yêu cầu phân loại;
+/ Bảo đảm độ đồng đều về kích thước hạt;
+/ Độ bền cơ học cao;
+/ Độ bền hoá học đảm bảo.
          Nguyên lí hoạt động


 





                    Sơ đồ nguyên lí bể lọc trọng lực với lớp vật liệu lọc dạng hạt
          1- Van chỉnh lưu lượng nước vào ; 2- Van xả nước bùn rửa lọc; 3- Van chặn khi xả rửa hoặc thu nước và mở khi xả lọc đầu và xả kiệt; 4- Van mở khi thu nước sạch; 5- Van nối nước rửa lọc hoặc ống do tổn thất áp DP (nếu có), hoặc chống e khí.
          Nước thô (từ nguồn hoặc từ bể lắng để loại bớt SS, theo TCN 33-85, SS khi vào bể lọc nhanh phải không lớn hơn 10 mg/L) theo đường dẫn vào bể qua ngăn trung gian (đôi khi gọi là túi). Trên đường đi có van (1) để kiểm soát lưu lượng nước vào. Ngăn trung gian có chức năng nhận và phân phối nước vào đều khắp bề mặt bể lọc thông qua các máng tràn (không vẽ trên h. 9.3). Nước lọc đi từ trên xuống, qua lớp vật liệu lọc dày khoảng một mét, cặn bùn được giữ lại ở phí trên và trong lớp cát, nước trong đi vào hệ thu gom, theo ống dẫn qua van (4) vào bể chứa nước sạch. Lúc mới lọc nước ra hơi đục sẽ được xả bỏ (gọi là xả lọc đầu) qua đường van (3). Khi bể tắc hoặc bị đánh thủng phải rửa lọc.
2.5.4.2. Lọc chậm
          Giới thiệu: Lọc chậm áp dụng nhiều cho xử lí nước uống và nước cấp, vận tốc chảy rất thâp: 0.03.10-3-0,15.10-3 m/s do đó mỗi chu kí lọc chậm thường kéo dài đến vài tháng hoặc lâu hơn, lọc chậm.vì vậy bên cạnh khả năng tách cặn lơ lửng như nguyên lí lọc nhanh mà không cần hoá chất keo tụ, lọc chậm có khả năng làm trong nước tốt hơn nhiều nhờ quá trình lọc sinh học. Lọc chậm rất thích hợp ở khu vực nông thôn với điều kiện vận hành, bảo dưỡng đúng phương pháp. Nếu áp dụng ở quy mô lớn cũng sẽ cho kết quả rất tốt về về mặt chất lượng nước.
          Quá trình lọc bắt đầu từ lớp nước trên lớp vật liệu lọc đến sâu vào trong lớp vật liệu lọc, quan trọng nhất là các quá trình sinh học bắt đầu từ lớp màng lọc thứ cấp được hình thành từ cặn và vi sinh vật tích luỹ trong hai-ba tuần đầu tiên trên mặt cát. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa lọc chậm và lọc nhanh. Nhờ lớp màng lọc này và các quá trình vi sinh mô tả sau đây nước lọc chậm có chất lượng cao không những về độ trong (do lọc tốt cặn lơ lửng) nhờ lớp cát mịn mà còn sạch một phần chất hữu cơ và có thể loại tới 95-99% về tổng vi khuẩn và 20-40% về độ ôxy hoá.
          Cấu tạo bể lọc chậm
 Hệ thống lọc chậm gồm 3 khối chính (như hỡnh vẽ)










Sơ đồ cấu tạo nguyên lý của hệ lọc chậm
1. Hệ cấp nước thô;
2. Bể lọc gồm hai bộ phận:
Lớp vật liệu lọc và lớp đệm;
Hệ thu nước;
3. Bể chứa nước sạch
          Do tốc độ lọc chậm, trong hệ không nhất thiết phải quan tâm quá mức đến hệ phân phối nước vào. Ngoài ra cần có hệ thống van điều chỉnh lưu lượng, xả kiệt ...
          Điểm khác cơ bản của hệ lọc chậm so với lọc nhanh là lớp cát lọc. Cát lọc chậm nhỏ hơn nhiều so với cát lọc nhanh, kích thước cát lọc chỉ xung quanh 0,3 mm. Cấu tạo lớp cát lọc và vật liệu đệm gần giống bể lọc nhanh.
          Do tốc độ lọc chậm, trong bể lọc đồng thời xảy ra các quá trình làm sạch nước sau đây:
           Quá trình sa lắng
           Quá trình hấp phụ
           Quá trình lọc
     Quá trình xử  lý sinh học.
          Đáy bể với chức năng thu gom nước lọc được xây dựng bằng cách xếp các tấm beton hoặc gạch so le để tạo các khe hở cho nước chảy như hìn. Khe hở phải đủ nhỏ để không lọt vật liệu đệm.
          Nguyên lí hoạt động:
          Bể lọc thường cao khoảng 3 m với lớp cát lọc dày 1,0 ¸ 1,2 mét. Cát lọc là cát mịn, có kích thước hiệu quả 0,15 ¸ 0,35 mm, nhỏ hơn nhiều so với cát lọc nhanh.
          Quá trình lọc mô tả như sau
          Nước thô được bơm P1 đẩy qua van V1 vào túi phân phối T, từ đây nước vào bể, được lọc qua lớp cát mịn với tốc độ rất chậm:  0,1 ¸ 0,3 m/h.
          Khi mới khởi động, tốc độ lọc chỉ được hiệu chỉnh ở mức 1/2 vận tốc thiết kế và tăng dần trong 12 giờ đầu tiên tới vận tốc thiết kế, lượng nước đầu này phải xả bỏ. Sau 12 đến 36 giờ (nếu dùng cát mới càng phải kéo dài giai đoạn này để vi sinh phát triển càng lâu càng tốt, có thể tới 2 ¸3 tuần) bắt đầu thu nước lọc.
          Trong quá trình lọc, lớp vật liệu lọc bị tắc dần, trở lực tăng dần. Để giữ tốc độ lọc ổn định cần nâng dần mức nước dư trong bể lọc.
2.5. Sát trùng
Định nghĩa
    -  Khử trùng là quá trình tiêu diệt các tác nhân gây bệnh trong nước.
Đối với các chất sát trùng nước cấp có 2 chức năng: tiêu diệt các mầm gây bệnh  và bảo vệ hệ thống dự trữ và phân phối nước
Các tác nhân sát trùng
-            hoá chất: clo, các hợp chất chứa clo hoạt động, ozon, axit và bazơ,…
-            các tác nhân vật lý : nhiệt, bức xạ UV, lọc và lắng
-            bức xạ : điện từ
          Trong đó 2 tác nhân phổ biến nhất là clo (và các hợp chất clo hoạt động) và ozon. Axit và kiềm đôi khi cũng áp dụng vì ở pH >11 hoặc  pH <13 vi khuẩn cũng bị ức chế thậm chí phân huỷ. Ngoài các tác nhân đã nêu, brom, iot, phenol, ancol và hydroperoxit cũng thường được sử dụng ở quy mô nhỏ, các trường hợp riêng biệt. Nói chung chất sát trùng phải là chất oxi hoá, càng mạnh càng tốt. Về khía cạnh các phương pháp vật lý phổ biến nhất là hai tác nhân nhiệt và ánh sáng (nhất là tia cực tím). UV cũng như ozon không có tác dụng kéo dài, hơn nữa chi phí ban đầu cao nên chưa phổ biến rộng. Khi sử dụng UV, yếu tố SS giảm mạnh.
2.5.1. Các tiêu chuẩn lựa chọn chất khử trùng
           Vì tất cả các phương pháp và các chất khử trùng không phải là tương  đương nhau nên cần phải chọn phương pháp thích ứng nhất có tính đến các điều kiện đặc biệt nào đó (các đặc tính và việc sử dụng nước, loại vi sinh vật cần loại bỏ, chất lượng nước cấp,…). Một chất khử trùng và một phương pháp khử trùng cần phải thoả mãn :
-         Không độc với người và động vật
-         Độc với VSV ở nồng độ thấp
-         Phải hoà tan trong nước
-         Tạo với nước thành một dung dịch đồng nhất
-         Có hiệu quả ở nhiệt độ nước tiêu thụ bình thường (từ 0-250C)
-         Ổn định để dễ dàng duy trì một nồng độ dư nào đó trong một thời gian dài
-         Không tác dụng với các chất hữu cơ khác và chất hữu cơ của các VSV
-         Không phá huỷ kim loại cũng như không làm hỏng quần áo khi giặt
-         Khử các mùi
-         Có số lượng lớn và được bán với giá tiếp cận được
-         Dễ dàng vận hành và không có nguy hiểm đối với người vận hành
-         Cho phép đo dễ dàng nồng độ và do đó kiểm tra chính xác nồng độ của chúng

2.5.2. Một số tác nhân khử trùng thường gặp
     Clo
          Các chất hoá học được sử dụng nhiều nhất để khử trùng clo là: khí clo, các hypoclorit natri NaOCl, các hipoclorit canxi Ca(OCl)2, các monocloramin NH4Cl và đioxit clo ClO2. Trong số các sản phẩm này, chính clo ở dạng khí là chất mà người ta dùng nhiều nhất để khử trùng nước sạch. Trong các trạm xử lý nước nhỏ người ta hay dùng hypoclorit vì các chất này dễ sử dụng mà ít gây nguy hại cho người sử dụng. Cloramin tác dụng chậm trong nước, od đó người ta sử dụng chúng ở những nơi có thể đảm bảo thời gian tiếp xúc tương đối lâu. Từ năm 1974, người ta sử dụng chủ yếu dioxit clo do khả năng khử trùng, oxy hoá các chất hữu cơ và khử được một phần lớn các mùi, vị mà không sinh ra các chất gây ung thư. Tuy nhiên dioxit clo là một khí không ổn định nên phải sản xuất ngay tại nơi sử dụng.
      +Thiết kế hệ clo hoá:
          - Để thiết kế cần chọn trước dạng clo sẽ dùng, phương pháp định lượng, sau đó tính kích thước bể phản ứng, chọn hệ kiểm soát và các thiết bị phụ trợ
          - Trên thị trường, clo có một số dạng sau: clo lỏng nén trong các bình (bom) thép. Khi sử dụng clo loại này phải có hệ thiết bị xả clo ở nhiệt độ phòng, khi đó clo sẽ chuyển về dạng khí, hoà tan clo trong nước sạch để có dung dịch clo gốc rồi định lượng dung dịch clo vào nước cần xử lý. Đây là dạng clo rẻ nhất nhưng khó dùng nhất (cần thiết bị pha và định lượng chuyên dụng, khá đắt).
          - Dạng clo phổ biến thứ 2  là dạng bột, ví dụ canxi hypoclorơ, trước khi sử dụng sẽ pha thành các dung dịch trong các bồn plastic
          - Dạng thứ 3 hay gặp là natri hypoclorơ. Đây là chất tẩy trắng công nghiệp, thường ở dạng lỏng và dung dịch chỉ chứa tối đa 15% Clo hoạt động. ở Việt Nam nộng độ clo hoạt động ở mức 80g/l
          +Ưu điểm của việc sử dụng clo:
           - Khử trùng nước được thực hiện bằng khí clo được nén vào trong những bỡnh thộp chịu ỏp lực cao và được đưa vào nước  nhờ hệ thống van điều chỉnh lượng khí clo thoát ra. Cách này có ưu điểm tiết kiệm được diện tích sử dụng, thuận tiện trong việc vận hành
          - Clo có rất nhiều ưu điểm đáp ứng được tiêu chuẩn lựa chọn chất khử trùng nên hiện nay phương pháp khử trùng bằng clo được dùng nhiều nhất (80%) các phương pháp khử trùng trên thế giới). Tác dụng khử trùng của các hợp chất có clo hoạt tính chính là ở chỗ sau khi hoà tan vào nước chúng tạo thành axit hypochlorous (HOCl) và các ion hypochlorite (OCl-) là những chất khi tiếp xỳc với màng tế bào của vi sinh sẽ làm cản trở quỏ trỡnh trao đổi chất dẫn đến chúng bị chết.
          + Nhược điểm:
          - Khi cho clo vào nước có thể kéo theo một số hiệu ứng phụ như clo tác dụng với các chất hữu cơ của nước  đôi khi có thể tạo ra các chất gây ung thư (trihalometan) hoặc gây mùi khó chịu (clorofenolat)
          - Clo không đủ mạnh để loại bỏ hoàn toàn một số VSV như virut và động vật đơn bào.
          - Clo là chất độc mạnh do vậy cần có các biện pháp đảm bảo an toàn nghiêm ngặt 
          Ozon
          Ozon có công thức hoá học là O3, là một khí không ổn định và khả năng oxi hoá cao. O3 được sử dụng làm chất khử trùng từ đầu những năm 1970.
          + Các tính chất của O3:
              -  Khả năng oxy hoá: khả năng oxy hoá là đặc tính rất tốt làm cho nó trở thành một chất hay được sử dụng trong công nghệ xử lý nước. Thật vậy, ozon làm giảm màu, mùi và vị. Nó còn phá huỷ các chất có nguồn gốc phenol, oxy hoá các ion sắt và mangan hoà tan biến chúng thành các ion không tan. Hơn nữa khả năng oxy hóa cao còn phá vỡ các hợp chất  hữu cơ của sắt và mangan mà các phương pháp khử sắt và mangan thông thường không làm được. Mặt khác, trái ngược với clo, ozon không có tác dụng với nitơ amoniac. Tuy nhiên, một số nghiên cứu mới đây đã  tiết lộ sự ozon hoá một số chất hữu cơ và một số thuốc trừ sâu có thể tạo thành các chất gây ung thư.
              -  Khả năng khử trùng: khả năng khử trùng của O3 cao hơn clo từ 10-100 lần và tiêu diệt tất cả các loại VSV. Nó diệt có hiệu quả đối với các bào tử và các nang là các VSV bền vững nhất.
              - Lượng O3 cho vào nước để khử trùng phụ thuộc vào các loai nước, nhu cầu oxy hoá các chất hữu cơ và vô cơ. Cũng như đối với clo, cần duy trì  một nồng độ ozon dư nào đó sau thời gian tiếp xúc xác định.
              + Các phương pháp sản xuất O3
              Hai phương pháp sản xuất ozon chính dựa trên tác dụng quang hoá học của các tia cực tím (phương pháp tạo ozon trong khí quyển) hoặc tác dụng của sự phóng điện dưới áp suất cao trong không khí khô (phương pháp sử dụng trong công nghiệp). Người ta cũng có thể sản xuất ozon từ không khí hoặc oxy nguyên chất. Về khối lượng, hiệu suất của máy phát ozon gần gấp đôi khi là oxy nguyên chất.
          +Ưu điểm của việc sát trùng bằng O3: hoạt tính cao, xử lý được rất tốt cả động vật nguyên sinh, ít gây mùi khó chịu, không tạo phụ phẩm là các hợp chất cơ clo độc hại.
          + Nhược điểm:
          - Nhược điểm lớn nhất: O3là chất phân huỷ nhanh tạo thành O2 nên thời gian tồn tại trong nước ngắn (20-30p) =>phải sản xuất ngay tại chỗ để dùng ngay và không có tác dụng bảo vệ hệ phân phối.
          - Trong việc sản xuất O3 giá thành năng lượng điện sử dụng và bảo dưỡng là rất lớn.

 Bảng: So sánh khả năng khử trùng của một số chất khử trùng thường gặp dựa vào hệ số diệt vi sinh

Chất khử trùng
Vi khuẩn
Virut
Bào tử
Ozon (O­3)
500
5
2
HOCl
20
1,0
0,05
OCl-
0,2
< 0,02
< 0,0005
NH2Cl
0,1
0,005
0,001





































II. TỔNG QUAN VỀ NGUỒN NƯỚC NGẦM
1. Tổng quan về nguồn nước ngầm
1.1. Sơ đồ nguồn nước ngầm

























          Có rt nhiu phương pháp đ x nưc ngm, tu thuc vào nhiu yếu t như: nhu cu cp nưc, tiêu chun dùng nưc, đc điểm ca ngun nưc ngầm, c điu kin t nhiên, điu kin kinh tế xã hi mà chúng ta s lựa chọn ng ngh x lý nưc ngm sao cho phù hp.
1.2 Tổng quan về nguồn nước ngầm
          Việt nam là quốc gia có nguồn nước ngầm khá phong phú về trữ lượng và khá tốt về chất lượng. Nưc ngm tồn tại trong các l hng và các khe nt ca đất đá, đưc tạo thành trong giai đoạn trầm ch đất đá hoặc do s thm thấu, thm của nguồn nưc mặt, nưc mưa… nưc ngầm có th tồn tại cách mặt đất vài mét, vài chục mét, hay hàng trăm mét.
          Đối với các hệ thống cấp nước cộng đồng thì nguồn nước ngầm luôn luôn là nguồn nước được ưa thích. Bới vì, các nguồn nước mặt thường hay bị ô nhiễm và lưu lượng khai thác phải phụ thuộc vào sự biến động theo mùa. Nguồn nước ngầm ít chịu ảnh hưởng bởi các tác động của con người. Chất lượng nước ngầm thường tốt hơn chất lượng nước mặt nhiều. Trong nước ngầm hầu như không có các hạt keo hay các hạt lơ lửng, và vi sinh, vi trùng gây bệnh thấp.
Một số đặc điểm khác nhau giữa nước ngầm  và nước mặt:

Thông số
Nước ngầm
Nước b mặt
Nhiệt đ
Tương đi ổn đnh
Thay đi theo mùa
Cht rắn lơ lng
Rt thấp, hầu như không có
Thưng cao và Thay đi theo mùa
Chất khoáng hòa tan
Ít thay đi, cao hơn so vi nưc mt.
Thay đổi tùy thuộc chất lượng đất, lượng mưa
Hàm lưng Fe2+,Mn2+, nước
Thường xuyên có trong
Rất thấp, chỉ khi có nước ở sát dưới đáy hồ.
Khí CO2 hoà tan
Có nồng độ cao
Rất thấp hoặc bằng 0
Khí O2 hoà tan
Thường không tồn tại
Gần như bão hoà
Khí NH3
Thường có
Có khi nguồn nước bị nhiễm bẩn
Khí H2S
Thường có
Không có
SiO2
Thưng có nồng đ cao
nồng độ trung bình
NO3
Có ở nồng độ cao, do bị nhiễm bởi phân bón hóa học
Thường rất thấp
Vi sinh vật
Chủ yếu là các vi trùng do sắt gây ra
Nhiều loại vi trùng, virut gây bệnh và tảo.

          Các nguồn nước ngầm hầu như không chứa rong tảo, một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước. Thành phần đáng quan tâm trong nước ngầm là các tạp chất hoà tan do ảnh hưởng của điều kiện địa tầng, thời tiết, nắng mưa, các quá trình phong hoá và sinh hoá trong khu vực. Ở những vùng có điều kiện phong hoá tốt, có nhiều chất bẩn và lượng mưa lớn thì chất lượng nước ngầm dễ bị ô nhiễm bởi các chất khoáng hoà tan, các chất hữu cơ, mùn lâu ngày theo nước mưa thấm vào đất.
          Ngoài ra, nước ngầm cũng có thể bị nhiễm bẩn do tác động của con người. Các chất thải của con người và động vật, các chất thải sinh hoạt, chất thải hoá học, và việc sử dụng phân bón hoá học… tất cả những loại chất thải đó theo thời gian nó sẽ ngấm vào nguồn nước, tích tụ dần và làm ô nhiễm nguồn nước ngầm. Đã có không ít nguồn nước ngầm do tác động của con người đã bị ô nhiễm bởi các hợp chất hữu cơ khó phân huỷ, các vi khuẩn gây bệnh, nhất là các hoá chất độc hại như các kim loại nặng, dư lượng thuốc trừ sâu và không loại trừ cả các chất phóng xạ.
2. Quy trình cơ bản xử lý nước ngầm
          Có rất nhiều phương pháp để xử lý nước ngầm, tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như: nhu cầu cấp nước, tiêu chuẩn dùng nước, đặc điểm của nguồn nước ngầm, các điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội… mà Công ty sẽ lựa chọn công nghệ xử lý nước ngầm sao cho phù hợp. Tuy nhiên có một số quá trình cơ bản có thể áp dụng để xử lý nước ngầm được tóm tắt như bảng sau:

Quá trình x lý
Mc đích
- Làm thoáng
 - Lấy oxy từ không khí để oxy hoá sắt và mangan hoá trị II hoà tan trong nước.
 - Khử khí CO2 nâng cao pH của nước để đẩy nhanh quá trình oxy hoá và thuỷ phân sắt và mangan trong dây chuyền công nghệ khử sắt và mangan.
- Làm giàu oxy để tăng thế oxy hoá khử của nước, khử các chất bẩn ở dạng khí hoà tan trong nước.
- Clo hoá sơ bộ

- Oxy hoá sắt và mangan hoà tan ở dạng các phức chất hữu cơ.
- Loại trừ rong, rêu, tảo phát triển trên thành các bể trộn, tạo bông cặn và bể lắng, bể lọc.
- Trung hoà lượng amoniac dư, diệt các vi khuẩn tiết ra chất nhầy trên mặt lớp các lọc.
- Quá trình khuấy trộn hoá chất
- Phân tán nhanh, đều phèn và các hoá chất khác vào nước cần xử lý.
- Quá trình keo tụ và phản ứng tạo bông cặn
- Tạo điều kiện và thực hiện quá trình dính kết các hạt cặn keo phân tán thành bông cặn có khả năng lắng và lọc với tốc độ kinh tế cho phép.
- Quá trình lắng
- Loại trừ ra khỏi nước các hạt cặn và bông cặn có khả năng lắng với tốc độ kinh tế cho phép, làm giảm lượng vi trùng và vi khuẩn.
- Quá trình lọc
- Loại trừ các hạt cặn nhỏ không lắng được trong bể lắng, nhưng có khả năng dính kết lên bề mặt hạt lọc.
- Hấp thụ và hấp phụ
- Khử mùi, vị, màu của nước sau khi dùng phương pháp xử lý bằng than hoạt  tính  truyền thống không đạt yêu cầu.
- Flo hoá nước
- Nâng cao hàm lượng flo trong nước đến 0, 6 - 0,9 mg/l để bảo vệ men răng và xương cho người dùng nước.
- Khử trùng nước
- Tiêu diệt vi khuẩn và vi trùng còn lại trong nước sau bể lọc.
- Ổn định nước
- Khử tính xâm thực và tạo ra màng bảo vệ cách ly không cho nước tiếp xúc trực tiếp với vật liệu mặt trong thành ống dẫn để bảo vệ ống và phụ tùng trên ống.
- Làm mềm nước
- Khử ra khỏi nước các ion Ca2+ và Mg2+ đến nồng độ yêu cầu.
- Khử muối
- Khử ra khỏi nước các cation và anion của các muối hoà tan đến nồng độ yêu cầu.



2.1. Khử sắt trong nước ngầm
          Trạng thái tồn tại tự nhiên của Sắt trong các nguồn nước ngầm sắt thường tồn tại ở dạng ion, sắt có hoá trị 2 (Fe2+) là thành phần của các muối hoà tan như: Fe(HCO3)2 ; FeSO4… hàm lượng sắt có trong các nguồn nước ngầm thường cao và phân bố không đồng đều trong các lớp trầm tích dưới đất sâu. Nước có hàm lượng sắt cao, làm cho nước có mùi tanh và có màu vàng, gây ảnh hưởng không tốt đến chất lượng nước ăn uống sinh hoạt và sản xuất.
          Do đó, khi mà nước có hàm lượng sắt cao hơn giới hạn cho phép theo tiêu chuẩn thì chúng ta phải tiến hành khử sắt.
          + Các Hợp Chất Vô Cơ Của Ion Sắt:
          Các hợp chất vô cơ của ion sắt hoá trị II :
          • FeS, Fe(OH)2, FeCO3, Fe(HCO3)2, FeSO4, v.v…
        Các hợp chất vô cơ của ion sắt hoá trị III :
          • Fe(OH)3, FeCl3… trong đó Fe(OH)3 là chất keo tụ, dễ dàng lắng đọng trong các bể lắng và bể lọc. Vì thế, các hợp chất vô cơ của sắt hoà tan trong nước hoàn toàn có thể xử lý bằng phương pháp lý học: làm thoáng lấy oxy của không khí để oxy hoá sắt hoá trị II thành sắt hoá trị III và cho quá trình thuỷ phân, keo tụ Fe(OH)3 xảy ra hoàn toàn trong các bể lắng, bể lọc tiếp xúc và các bể lọc trong.
          + Các phức chất vô cơ của ion sắt với silicat, photphat (FeSiO(OH)3 +3)
          • Các phức chất hữu cơ của ion sắt với axit humic, funvic, …
          • Các ion sắt hoà tan Fe(OH)+, Fe(OH)3 tồn tại tuỳ thuộc vào giá trị thế oxy hoá khử và pH của môi trường.
          • Các loại phức chất và hỗn hợp các ion hoà tan của sắt không thể khử bằng phương pháp lý học thông thường, mà phải kết hợp với phương pháp hoá học. Muốn khử sắt ở các dạng này phải cho thêm vào nước các chất oxy hoá như : Cl-, KMnO4, Ozone, để phá vỡ liên kết và oxy hoá ion sắt thành ion hoá trị III hoặc cho vào nước các chất keo tụ FeCl3, Al(SO4)3 và kiềm hoá để có giá trị pH thích hợp cho quá trình đồng keo tụ các loại keo sắt và phèn xảy ra triệt để trong các bể lắng, bể lọc tiếp xúc và bể lọc trong.
2.2. Phương pháp khử sắt trong xử lý nước ngầm
2.2.1. Phương Pháp Ôxy Hoá Sắt
          Nguyên lý của phương pháp này là oxy hoá sắt (II) thành sắt (III) và tách chúng ra khỏi nước dưới dạng hyđroxyt sắt (III). Trong nước ngầm, sắt (II) bicacbonat là một muối không bền, nó dễ dàng thuỷ phân thành sắt (II) hyđroxyt theo phản ứng:
Fe (HCO3)2 + 2H2O → Fe(OH)2 + 2H2CO3
          Nếu trong nước có ôxy hoà tan, sắt (II) hyđrôxyt sẽ bị ôxy hoá thành sắt (III) hyđrôxyt theo phản ứng:
4Fe(OH)2 + 2H2O + O2 → 4Fe(OH)3↓
          Sắt (III) hyđrôxyt trong nước kết tủa thành bông cặn màu vàng và có thể tách ra khỏinước một cách dễ dàng nhờ quá trình lắng lọc. Kết hợp các phản ứng tr ên ta có phản ứng chung của quá trình oxy hoá sắt như sau:
4Fe2+ + 8HCO3 + O2 + H2O → 4Fe(OH)3 + 8H+ + 8HCO3
          Nước ngầm thường không chứa ôxy hoà tan hoặc có hàm lượng ôxy hoà tan rất thấp. Để tăng nồng độ ôxy hoà tan trong nước ngầm, biện pháp đơn giản nhất là làm thoáng. Hiệu quả của bước làm thoáng được xác định theo nhu cầu ôxy cho quá trình khử sắt.
2.2.2. Khử sắt bằng quá trình ôxy hoá
Làm thoáng đơn giản bề mặt lọc
          Nước cần khử sắt được làm thoáng bằng dàn phun mưa ngay trên bề mặt lọc. Chiều cao giàn phun thường lấy cao khoảng 0,7m, lỗ phun có đường kính từ 5-7mm, lưu lượng tưới vào khoảng 10 m3/m2.h. Lượng ôxy hoà tan trong nước sau khi làm thoáng ở nhiệt độ 250C lấy bằng 40% lượng ôxy hoà tan bão hoà (ở 250C lượng ôxy bão hoà bằng 8,1 mg/l).
Làm thoáng bng giàn mưa t nhiên
          Nước cần làm thoáng được tưới lên giàn làm thoáng một bậc hay nhiều bậc với các sàn rải xỉ hoặc tre gỗ.
          Lưu lượng tưới và chiều cao tháp cũng lấy như trường hợp trên. Lượng ôxy hoà tan sau làm thoáng bằng 55% lượng ôxy hoà tan bão hoà. Hàm lượng CO2 sau làm thoáng giảm 50%.
Làm thoáng cưng bc
          Cũng có thể dùng tháp làm thoáng cưỡng bức với lưu lượng tưới từ 30 đến 40 m3/h. Lượng không khí tiếp xúc lấy từ 4 đến 6 m3 cho 1 m3 nước. Lượng ôxy hoà tan sau làm thoáng bằng 70% hàm lượng ôxy hoà tan bão hoà. Hàm lượng CO2 sau làm thoáng giảm 75%.
2.2.3. Kh sắt bng hoá chất
          Khi trong nước nguồn có hàm lượng tạp chất hữu cơ cao, các chất hữu cơ sẽ tạo ra dạng keo bảo vệ các ion sắt, như vậy muốn khử sắt phải phá vỡ được màng hữu cơ bảo vệ bằng tác dụng của các chất ôxy hoá mạnh. Đối với nước ngầm, khi hàm lượng sắt quá cao đồng thời tồn tại cả H2S thì lượng ôxy thu được nhờ làm thoáng không đủ để ôxy hoá hết H2S và sắt, trong trường hợp này cần phải dùng đến hoá chất để khử sắt.
Biện pháp kh st bng vôi
          Khi cho vôi vào nước, độ pH của nước tăng lên. Ở điều kiện giàu ion OH-, các ion Fe2+ thuỷ phân nhanh chóng thành Fe(OH)2 và lắng xuống một phần, thế ôxy hoá khử tiêu chuẩn của hệ Fe(OH)2/Fe(OH)3 giảm xuống, do đó sắt (II) dễ dàng chuyển hoá thành sắt (III). Sắt (III) hyđroxyt kết tụ thành bông cặn, lắng trong bể lắng và có thể dễ dàng tách ra khỏi nước. Phương pháp này có thể áp dụng cho cả nước mặt và nước ngầm. Nhược điểm của phương pháp này là phải dùng đến các thiết bị pha chế cồng kềnh, quản lý phức tạp, cho nên thường kết hợp khử sắt với quá trình xử lý khác như xử lý ổn định nước bằng kiềm, làm mềm nước bằng vôi kết hợp với sôđa.
Biện pháp khử sắt bằng Clo
          Quá trình khử sắt bằng clo được thực hiện nhờ phản ứng sau:
2Fe(HCO3)2 + Cl2 + Ca(HCO3)2 + 6H2O → 2Fe(OH)3CaCl2 + 6H+ + 6HCO3
          Biện pháp khử sắt bằng Kali Permanganat (KMnO 4)
          Khi dùng KMnO4 để khử sắt, qua trình xảy ra rất nhanh vì cặn mangan (IV) hyđroxyt vừa được tạo thành sẽ là nhân tố xúc tác cho quá trình khử. Phản ứng xảy ra theo phương trình sau:
5Fe2+ + MnO4 + 8H+ → 5Fe3+ + Mn2+ + 4H2O
          Biện pháp kh st bng cách lc qua lp vật liệu đặc biệt
          Các vật liệu đặc biệt có khả năng xúc tác, đẩy nhanh quá trình ôxy hoá khử Fe2+ thành Fe3+ và giữ lại trong tầng lọc. Quá trình diễn ra rẩt nhanh chóng và có hiệu quả cao. Cát đen là một trong những chất có đặc tính như thế.
          Biện pháp kh st bng phương pháp trao đi ion
          Phương pháp trao đổi ion được sử dụng khi kết hợp với quá trình khử cứng. Khi sử dụng thiết bị trao đổi ion để khử sắt, nước ngầm không được tiếp xúc với không khí v ì Fe3+ sẽ làm giảm khả năng trao đổi của các ionic. Chỉ có hiệu quả khi khử nước ngầm có hàm lượng sắt thấp.
          Biện pháp kh st bng phương pháp vi sinh
          Một số loại vi sinh có khả năng ôxy hoá sắt trong điều kiện mà quá trình ôxy hoá hoá học xảy ra rất khó khăn. Chúng ta cấy các mầm khuẩn sắt trong lớp cáy lọc của bể lọc, thông qua hoạt động của các vi khuẩn sắt được loại ra khỏi nước. Thường sử dụng thiết bị bể lọc chậm để khử sắt.
2.2.4. Một số giai đoạn về công nghệ khử sắt trong nước cấp
          Giai đoạn đưa các hoá chất vào nước
          Giai đoạn này gồm có quá trình làm thoáng nước để làm giàu ôxy và khử khí cacbonic cùng với việc pha trộn hoá chất vào nước như vôi, phèn, clo, ôzôn, kali permanganate…
          Giai đoạn xử sơ b
          Mục đích của giai đoạn này là nhằm tạo ra những điều kiện cho phản ứng ôxy hoá khử diễn ra được hoàn toàn, nhanh chóng. Các thiết bị cần thiết cho giai đoạn này là bể lắng tiếp xúc, bể lọc sơ bộ, bể lọc tiếp xúc, bể lắng ngang hoặc lắng trong.
          Giai đoạn làm sạch
          Giai đoạn này cần đến các bể lọc khác nhau. Tuỳ theo hàm lượng và thành phần sắt trong nước nguồn cùng với chất lượng nước nguồn mà quyết định quy trình khử sắt cụ thể, thường được xác định bằng thực nghiệm tại chỗ kết hợp với các kết quả tính toán sơ bộ. Khi hàm lượng sắt cao trên 6mg/l và cần khử triệt để khí cacbonic, quy trình khử sắt sẽ bao gồm cả ba giai đoạn trên.
2.2.5. Một số thiết bị khử sắt thường được sử dụng
          Làm thoáng đơn giản trên bề mặt bể lọc
          Người ta dùng giàn ống khoan lỗ phun mưa trên bề mặt lọc, lỗ phun có đường kính 5 đến 7 mm, tia nước dùng áp lực phun lên với độ cao 0,5 đến 0,6m. Lưu lượng phun vào khoảng 10m3/m2.h. Làm thoáng trực  tiếp trên bề mặt bể lọc chỉ nên áp dụng khi nước nguồn có hàm lượng sắt thấp và không phải khử CO2.
          Tháp làm thoáng t nhiên
          Sử dụng tháp làm thoáng tự nhiên (giàn mưa) khi cần làm giàu ôxy kết hợp với khử khí CO 2. Do khả năng trao đổi của O2 lớn hơn CO2 nên tháp được thiết kế cho trường hợp khử CO2. Giàn mưa cho khả năng thu được lượng ôxy hoà tan bằng 55% lượng ôxy bão hoà và có khả năng khử được 75-80% lượng CO2 còn lại sau khi làm thoáng không xuống thấp hơn 5-6mg/l.
          Tháp làm thoáng cưng bức
          Cấu tạo của tháp làm thoáng cưỡng bức cũng gần giống như tháp làm thoáng tự nhiên, ở đây chỉ khác là không khí được đưa vào tháp cưỡng bức bằng quạt gió. Không khí đi ng ược chiều với chiều r ơi của các tia nước. Lưu lượng tưới thường lấy từ 30 đến 40 m3/m2.h. Lượng không khí cấp vào từ 4 đến 6m3 cho 1m3 nước cần làm thoáng.
          Bể lắng tiếp xúc
          Bể lắng tiếp xúc có chức năng giữ nước lại sau quá trình làm thoáng trong một thời gian đã để quá trình ôxy hoá và thuỷ phân diễn ra hoàn toàn, đồng thời tách một phần cân nặng trước khi chuyển sang bể lọc. Trong thực tế thường lấy thời gian lưu của nước từ 30 đến 45 phút. Bể lắng tiếp xúc có thể được thiết kế như bể lắng đứng và thường đặt ngay dưới giàn làm thoáng.
          Bể lọc tiếp xúc hay bể lọc sơ bộ được áp dụng khi hàm lượng sắt trong nước nguồn cao hoặc cần khử đồng thời cả mangan. Bể lọc tiếp xúc có cấu tạo như các bể lọc thông thường với lớp vật liệu lọc bằng sỏi , than antraxit, sành, sứ…có kích thước hạt lớn. Tốc độ lọc thường khống chế trong khoảng 15 đến 20m/h.
          B lc cặn sắt
          Để lọc sạch nước có chứa cặn sắt, sử dụng các bể lọc nhanh thông thường. Do khác với bể lọc cạn bẩn bình thường ở chỗ quá trình ôxy hoá và thuỷ phân sắt con tiếp tục xảy ra trong lớp vật liệu lọc, nên ngay từ đầu chu kỳ loc, cặn đã bám sẵn trong lớp vật liệu lọc v à độ chứa cặn của lớp vật liệu lọc sẽ cao hơn.
          Vì vậy, vật liệu lọc có thể lấy cấp phối hạt lớn hơn, đương kính trung bình hạt từ 0,9 đến 1,3 mm, bề dày lớp vật liệu lọc 1,0 đến 1,2m, tốc độ lọc lấy từ 5 đến 10m/h. Do cặn sắt bám chắc nên phải rửa lọc bằng nước và khí kết hợp, lưu lượng nước rửa thực tế thường dùng từ 10 đến 12 l/m2.s. Nếu sử dụng bể lọc 2 lớp gốm antraxit và cát thạch anh thì hiệu quả xử lý sẽ cao hơn.
2.2.6. Các yếu t nh hưng đến quá trình kh sắt
          Tốc độ phản ứng của quá trình ôxy hoá và thuỷ phân Fe2+ thành Fe3+ tuỳ thuộc vào lượng oxy hoà tan trong nước tăng lên. Để oxy hoá 1mg sắt (II) tiêu tốn 0,143mg oxy. Thời gian oxy hoá và thuỷ phân sắt trên công trình phụ thuộc vào trị số pH của nước có thể lấy như sau:
          Thời gian ti ưu ca quá trình keo t

pH
6,0
6,5
6,6
6,7
6,8
6,9
7
≥7.5
Thời gian tiếp xúc cần thiết trong bể lắng và bể lọc (thời gian lưu nước) (phút)
90
60
45
30
25
20
15
10
Thời gian tiếp xúc cần thiết (thời gian lưu nước) trong bể lọc tiếp xúc (bể lọc I) và bể lọc trong (bể lọc đợt II) (phút)
60
45
35
25
20
15
15
5

          Tốc độ lọc qua bể tiếp xúc có thể lấy 5 -20 m/h tuỳ thuộc vào thời gian lưu nước cần thiết và lượng cặn cần giữ lại sao cho qua bể lọc đợt I hàm lượng cặn còn lại đi qua bể lọc trong (lọc đợt II) ≤ 15mg/l. Tốc độ lọc qua bể lọc trong lấy 3-9 m/h tuỳ thuộc vào chiều dày và cỡ hạt của lớp vật liệu lọc và thời gian lưu nước cần thiết.

2.2.7. Áp dụng q trình kh sắt o vic x lý c ngm để cp nưc cho cộng đng dân cư nông thôn
            Mục đích của việc x lý nưc cấp
          Cung cấp đầy đủ lượng nước cho quá trình sử dụng của người dân và đảm bảo an toàn về mặt hoá học, vi trùng học…để thoả mãn các nhu cầu về ăn uống, sinh hoạt dịch vụ, sản xuất…Nước có chất lượng tốt, ngon không chứa các chấy gây đục, gây ra màu, mùi, vị của nước.
          Tóm lại, là mọi nguồn nước thô sau khi qua hệ thống xử lý phải đạt: “Tiêu chuẩn vệ sinh đối với chất lượng nước cấp cho ăn uống và sinh hoạt theo tiêu chuẩn– TCVN 5501 – 1991”.

          S liệu cần thiết để thiết kế trạm x lý khử sắt
          Khi thiết kế trạm xử lý nước cấp có quá trình khử sắt, chúng ta cần phải thu thập các số liệu như sau: Công  xuất hữu ích của trạm, số giờ hoạt động trong ngày hay công suất giờ. Bơm nước liên tục với lưu lượng đủ lớn để loại trừ hết nước tồn đọng, sau đó lấy mẫu ngay tại đầu bơm để phân tích các chỉ tiêu:
1. Độ đục
 2. Độ màu
3. Độ oxy hóa
4. Độ kiềm
5. Độ cứng toàn phần và độ cứng cacbonat
6. pH
7. Tổng hàm lượng sắt
8. Hàm lượng Ion sắt hóa trị II
9. Hàm lượng Ion sắt hóa trị II
10. Hàm lượng silic, poliphotphat và các kim loại
nặng
11. Hàm lượng CO2 tự do
12. Hàm lượng H2S
Kết quả thí nghiệm khử sắt tại chỗ theo phương pháp lý học, hoá học.
Phân loi nưc ngm theo hàm lưng sắt
Phân loi nưc ngm:
Loại nước ngầm
Hàm lượng sắt (mg/l)
Nước ngầm có hàm lượng sắt thấp
0,4 - 10
Nước ngầm có hoàm lượng sắt trung bình
10 – 20
Nước ngầm có hàm lượng sắt cao
>20
Theo TCVN
<0,3
Xử lý nưc ngm có hàm ng sắt thp (hàm lưng sắt <10 Mg/L)
Công nghệ xử lý: (Làm thoáng đơn giản và lọc) Điều kiện áp dụng:
1.Tổng hàm lượng sắt: ≤ 10 mg/l;
2. Độ màu của nước khi chưa tiếp xúc với không khí <15;
3. Hàm lượng SiO2 2- < 2 mg/l;
4. Hàm lượng H2S < 0,5 mg/l;
5. Hàm lượng NH4 + < 1 mg/l;
6. Nhu cầu oxy = độ oxy hóa + 0,47 H 2S + 0,15Fe2+ < 7mg/l;
7. pH ≥7.







Công nghệ của Công ty trong  x lý ngầm


          Nước ngầm đựợc bơm lên tù giếng khoan hay giếng đào được đưa vào làm thoáng đơn giản. Có thể dùng máng tràn, giàn mưa, ejector thu khí hay bơm nén khí để làm thoang nước. Quá trình làm thoáng ở đây chủ yếu là cung cấp oxy cho nước. Nước sau khi làm thoáng được lọc qua một lớp vật liệu lọc. Tại bể lọc Fe2+ và oxy hòa tan sữ được tách ra và bám trên bề mặt của các vật liệu lọc, tạo nên màng xúc tác bao gồm các ion oxy, Fe2+, Fe3+. Màng xúc tác sẽ tăng cường quá trình hấp thụ và oxy hóa Fe do xảy ra trong môi trường dị thể. Trong phương pháp này không đòi hỏi phải oxy hóa hoàn  toàn Fe2+ thành Fe3+ và keo tụ.
          Xử lý nưc ngm có hàm ng sắt cao (hàm lưng st > 10 mg/l)
          Công nghệ xử lý: Làm thoáng - Lắng hoặc lọc tiếp xúc - Lọc trong
          Điều kiện áp dụng
1. Độ oxy hoá < (Fe2+/28 + 5), mg/l
2. Tổng hàm lượng sắt: >10 mg/l
3. Tổng hàm lượng muối khoáng <1000 mg/l
4. Hàm lượng SiO2  2- <2 mg/l
5. Hàm lượng H2S <1 mg/l
6. Hàm lượng NH4
+ <1,5 mg/l
7. Nhu cầu oxy = độ oxy hoá + 0,47 H 2S + 0,15Fe2+ <10 mg/l
8. pH < 6,8 thì tính toán thiết bị làm khoáng theo điều hiện khử khí CO2 nhằm tăng pH.
9. pH > 6,8 thì tính toán thi ết bị làm khoáng theo điều kiện lấy oxy để khử sắt.
          Nước ngầm được bơm lên từ giếng khoan hay giếng đào được đưa vào làm thoáng bằng dàn mưa, làm thoáng cưỡng bức để làm thoáng nước. Quá trình làm thoáng ở đây chủ yếu là cung cấp oxy cho nước. Nước sau khi làm thoáng được dẫn vào bể khuấy trộn và lắng cặn, trước khi đi vào bể nước được tiếp xúc với hoá chất có tác dụng đẩy nhanh quá trình oxy hoá hoà tan thành sắt III, nước từ bể lắng được dẫn qua bể lọc, bể lọc co chứa nhiều lớp vật liệu lọc.Nước sạch sau khi qua bể lọc được khử trùng bằng dung dịch clorine trước khi cung cấp cho người sử dụng. Để tránh hiện tượng tắc lọc ở bể lọc, do đó đến chu kỳ chúng ta phải tiến hành rửa lọc bằng nước (nước + khí). Cặn ở bể lắng được đưa vào bể nén cặn.