Thứ Ba, 12 tháng 11, 2013

Tiếp tục hoàn thiện đề án bảo vệ nguồn nước ngọt các sông
Cập nhật lúc22:17, Thứ Tư, 06/11/2013 (GMT+7)

(HPĐT)- Chuẩn bị nội dung kỳ họp thứ 7 HĐND thành phố (khóa 14), sáng 6-11, Ban Kinh tế và Ngân sách HĐND thành phố tổ chức thẩm tra Đề án và dự thảo Nghị quyết “Nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ nguồn nước ngọt tại sông Đa Độ, sông Giá, sông Rế,  sông Chanh Dương, kênh Hòn Ngọc và hệ thống trung thủy nông huyện Tiên Lãng”.

Đại diện Sở TN-MT báo cáo tóm tắt nội dung đề án
Đại diện Sở TN-MT báo cáo tóm tắt nội dung đề án

Tiếp thu ý kiến của lãnh đạo các địa phương có các sông trên chảy qua trong những buổi làm việc trước đó, đại diện lãnh đạo Sở TN-MT báo cáo tóm tắt đề án đã được chỉnh sửa, bổ sung. Theo đó, việc cải thiện chất lượng nguồn nước ngọt của các sông Đa Độ, sông Giá, sông Rế, sông Chanh Dương, kênh Hòn Ngọc và hệ thống trung thủy nông huyện Tiên Lãng được thực hiện theo 2 giai đoạn. Trong đó, từ 2013-2015, xử lý từ 70% trở lên lượng nước thải ra môi trường các lưu vực sông; bảo đảm thu gom toàn bộ lượng nước thải, không để xả thải trực tiếp ra sông, trước mắt đối với các sông Giá, Rế, Đa Độ. Sang giai đoạn 2016-2020, bảo đảm thu gom 100% lượng nước thải, không để xả thải trực tiếp ra sông đối với sông Chanh Dương, kênh Hòn Ngọc và hệ thống thủy nông huyện Tiên Lãng; thực hiện cắm mốc hành lang bảo vệ nguồn nước các sông, chủ động vận hành cấp nước ngọt.
Phần lớn đại biểu cho rằng, việc bảo đảm 70% lượng nước thải được xử lý trước khi xả ra môi trường trong giai đoạn 2013-2015 rất khó thực hiện vì thiếu số liệu kỹ thuật, kinh phí thực hiện.  
Đại diện Ban Kinh tế - ngân sách HĐND thành phố đánh giá, đề án đã đưa ra được số liệu cụ thể, có sự tiếp thu ý kiến chỉ đạo của thường trực HĐND thành phố, 9 nhóm giải pháp đồng bộ, xác thực, có tính thực tiễn cao. Tuy nhiên, đề án chưa nêu được nguyên nhân thuộc về công tác quản lý nhà nước, sự phối hợp thiếu chặt chẽ giữa các sở, ban, ngành và trách nhiệm của người đứng đầu đối với những bất cấp trong khai thác, sử dụng tài nguyên mặt nước. Đồng thời, yêu cầu ban soạn thảo Đề án cần sửa đổi nội dung việc cắm mốc hành lang bảo vệ nguồn nước các sông cần được thực hiện vào giai đoạn 2013-2015, tiếp tục bổ sung các giải pháp như: xây dựng cơ chế chính sách thuộc thẩm quyền của HĐND thành phố, tranh thủ nguồn vốn viện trợ quốc tế, đưa ra số liệu cụ thể về nguồn vốn đầu tư để cải tạo nguồn nước ngọt các sông trình HĐND trong kỳ họp tới./.
Đề án bảo vệ nguồn nước ngọt tại một số sông, kênh, hệ thống trung thuỷ nông của Hải Phòng
Cập nhật lúc09:33, Thứ Hai, 11/11/2013 (GMT+7)
Mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ nguồn nước ngọt tại các sông: Rế, Giá, Đa Độ, Chanh Dương; kênh Hòn Ngọc; hệ thống trung thuỷ nông Tiên Lãng trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn 2013-2020
(Dự thảo báo cáo tóm tắt đề án của UBND thành phố trình kỳ họp thứ 7 HĐND thành phố khóa 14)
Hải Phòng có tổng chiều dài của toàn bộ mạng lưới sông ngòi chảy qua thành phố khoảng gần 280km với mật độ lưới sông trung bình khoảng 0,18 km/km2, chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam và đổ ra biển. Hệ thống sông ngòi chảy qua địa phận thành phố Hải Phòng đã phân chia diện tích tự nhiên của thành phố thành 05 khu vực riêng biệt: khu vực Thủy Nguyên; khu vực các quận: Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô Quyền, Hải An và huyện An Dương; khu vực huyện Vĩnh Bảo; khu vực huyện Tiên Lãng; khu vực các quận: Kiến An, Dương Kinh, Đồ Sơn và các huyện: Kiến Thụy, An Lão (không tính huyện đảo Cát Hải và Bạch Long Vĩ).
Tài nguyên nước mặt của thành phố Hải Phòng được các dòng sông vận chuyển từ thượng nguồn xuống, được tích trữ, sử dụng thông qua hệ thống các công trình thủy lợi. Tại nhiều nơi trong thành phố, nguồn nước ngọt ngày càng bị suy thoái cả về số lượng lẫn chất lượng, dẫn đến thiếu nước vào mùa kiệt và ô nhiễm nguồn nước thô trong phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Vì vậy, việc ngăn chặn suy thoái và nâng cao chất lượng nguồn nước ngọt được HĐND thành phố và các cấp uỷ đảng, chính quyền quan tâm. Việc xây dựng các giải pháp nhằm quản lý chất lượng nguồn nước ngọt trên địa bàn thành phố là cần thiết.
Phần I
SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ ÁN VÀ CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
I. Sự cần thiết của Đề án
Sự phát triển mạnh về kinh tế, đặc biệt là về công nghiệp và đô thị đã làm cho nhu cầu dùng nước của Hải Phòng tăng mạnh. Theo kết quả tính toán sơ bộ của Viện Quy hoạch thủy lợi, tổng lượng nước đến hằng năm qua thành phố Hải Phòng vào khoảng 5,1 tỷ m3/năm nhưng nguồn nước phân bố không đều theo cả không gian và thời gian. Trước nhu cầu khai thác, sử dụng nước của thành phố Hải Phòng ngày càng tăng và tình trạng suy giảm chất lượng nước, đặc biệt là đối với nguồn nước ngọt, ngày càng diễn ra ở nhiều nơi với các mức độ khác nhau, khả năng thiếu nước cho các ngành kinh tế, nhất là vào mùa khô ngày càng rõ và sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế bền vững cũng như chất lượng đời sống nhân dân của thành phố.
Kết quả quan trắc, giám sát tài nguyên nước và môi trường trong thời gian vừa qua cho thấy, hiện nay, nguồn nước ngọt tại các sông cấp nước trên địa bàn thành phố ngày càng suy thoái, ô nhiễm do các hoạt động sản xuất và sinh hoạt gây ra, ảnh hưởng nghiêm trọng đến số lượng và chất lượng nguồn nước thô phục vụ sản xuất, sinh hoạt, duy trì môi trường sinh thái và tác động trực tiếp đến sức khỏe người dân. Vì vậy, việc xây dựng Đề án “Nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ nguồn nước ngọt tại sông Rế, sông Giá, sông Đa Độ, sông Chanh Dương, kênh Hòn Ngọc,  hệ thống trung thủy nông Tiên Lãng  trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn 2013-2020” là cấp thiết.
II. Phạm vi Đề án
Phạm vi Đề án bao gồm sông Giá, sông Rế, sông Đa Độ, sông Chanh Dương, kênh Hòn Ngọc và hệ thống trung thuỷ nông Tiên Lãng.
III. Căn cứ xây dựng Đề án
- Luật Bảo vệ môi trường số 52/2005/QH 11 ngày 29-11-2005;
- Luật Tài nguyên nước số 17/2012/QH 13 ngày 21-6-2012;
- Pháp lệnh Bảo vệ và Khai thác công trình thủy lợi số 32/2001/PL-UBTVQH10 ngày 4-4-2001 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Quyết định số 104/2000/QĐ-TTg ngày 25-8-2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2020;
- Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 7-9-2006 của Chính phủ về lập, phê duyệt và quản lý Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội;
- Nghị định số 04/2008/NĐ-CP ngày 11-1-2008 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 7-9-2006 của Chính phủ về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội;
- Nghị định số 120/2008/NĐ-CP ngày 1-12-2008 của Chính phủ về việc quản lý lưu vực sông;
- Nghị định số 112/2008/NĐ-CP ngày 20-10-2008 của Chính phủ về quản lý, bảo vệ, khai thác tổng hợp tài nguyên và môi trường các hồ chứa thủy điện, thủy lợi;
- Quyết định số 271/2006/QĐ-TTg ngày 27-11-2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh, bổ sung “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội thành phố Hải Phòng đến năm 2020”;
- Quyết định số 1448/QĐ-TTg ngày 19-9-2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch chung xây dựng thành phố Hải Phòng đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050;
- Thông tư số 15/2009/TT-BTNMT ngày 5-10-2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về Định mức kinh tế-kỹ thuật lập quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch tài nguyên nước;
- Báo cáo số 166/BC-BCS ngày 23-11-2007 của Ban Cán sự Đảng UBND thành phố về việc sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU của Thành ủy về công tác quản lý và phát triển đô thị Hải Phòng đến năm 2010;
- Kế hoạch số 11/KH-HĐND ngày 13-8-2013 của HĐND thành phố về việc chuẩn bị kì họp thứ 7 Hội đồng nhân dân thành phố khóa XIV (nhiệm kì 2011-2016).
Phần II
ĐẶC ĐIỂM, HIỆN TRẠNG VÀ CÁC VẤN ĐỀ BẤT CẬP TRONG KHAI THÁC, SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT
I. Đặc điểm mạng lưới sông trên địa bàn thành phố
I.1. Mạng lưới sông chính
Các sông chính nằm trên địa bàn thành phố Hải Phòng đều là phần hạ lưu của hệ thống sông Thái Bình sau khi đã qua địa phận tỉnh Hải Dương. Sông chính của Hải Phòng là những sông nhánh cấp 1, cấp 2 của hệ thống sông chung. Tổng số sông suối của toàn vùng là hơn 50. Theo thống kê ban đầu, có 8 hệ thống sông là sự tập hợp của các con sông suối, trong đó có 13 con sông có chiều dài trên 10 km, còn lại phần lớn là các sông, suối nhỏ ngắn và dốc, được phân bố chủ yếu ở rìa phía Đông Nam và ở phần giữa và rìa của phía Tây Nam.
II.2. Mạng lưới sông nhánh
Mạng lưới sông nhánh trên địa bàn thành phố bao gồm một số sông: Hóa, Mới, Mía, Tam Bạc, Kinh Môn, Hàn, Rế, Giá, Đa Độ.
- Sông Hóa: là phân lưu của sông Luộc được tách ra từ ngã ba Chanh Chử và nhập lưu với sông Thái Bình tại Trấn Dương, dài 37 km, độ sâu trung bình 80 m, độ rộng trung bình 3 m, sông uốn khúc và có bãi rộng ở hai bên bờ sông Hóa là ranh giới tự nhiên giữa Hải Phòng và Thái Bình.
- Sông Mới: nối liền sông Thái Bình với sông Văn Úc, trước kia là sông nhân tạo mới được đào năm 1936. Do đoạn sông thẳng và ngắn với chiều dài 3 km, độ dốc đáy sông lớn, phía hạ lưu sông Thái Bình lại uốn khúc, do đó lượng nước ngày càng có xu hướng chuyển qua sông Văn Úc là chính, chiếm 60% lượng nước sông Thái Bình. Vì thế sông Mới có tốc độ chảy lớn nhất so với các sông của thành phố, sức xói lở hai bờ và tạo lòng mạnh mẽ. Hướng chảy chủ yếu  là Tây-Đông, độ sâu trung bình 6,0 m, độ rộng trung bình là 100 m.
- Sông Mía: cũng nối liền sông Thái Bình với sông Văn Úc ở phía trên sông Mới thuộc địa phận Hải Phòng dài 3 km. Do hoạt động của con người và quá trình bồi lắng đoạn hạ lưu sông Thái Bình nên dòng chính chuyển qua sông Mía, làm cho sông này ngày càng được mở rộng, tốc độ chảy ngày càng tăng. Độ rộng trung bình 100 m, độ sâu trung bình 4 m, hướng chảy gần như Tây-Đông.
- Sông Tam Bạc: nối liền sông Lạch Tray với sông Cấm (từ Niệm Nghĩa đến cầu Thượng Lý) dài 3 km theo hướng Tây Nam-Đông Bắc độ sâu trung bình 4 m; độ rộng trung bình 80 m. Ngoài ra ở phía Bắc thành phố có đoạn sông Kinh Môn, là ranh giới tự nhiên với tỉnh Hải Dương, dài 12 km. Độ rộng trung bình 120 m, hệ số uốn khúc 2,4 và chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam là chủ yếu.
- Sông Hàn: nối liền sông Kinh Thầy với sông Đá Bạc, độ sâu trung bình 4 m. Hướng chảy là Tây Nam-Đông Bắc.
- Sông Giá: có chiều dài khoảng 19 km nằm ở phía Bắc thành phố Hải Phòng. Sông gián tiếp nhận nước từ sông Đá Bạc qua cống Phi Liệt và nhập lại vào sông Bạch Đằng qua đập Minh Đức.
- Sông Rế: có tổng chiều dài trên địa bàn thành phố Hải Phòng khoảng hơn 10 km, nằm ở phía Tây của thành phố Hải Phòng.
- Sông Đa Độ: có chiều dài gần 50 km nằm ở phía Tây Nam của thành phố Hải Phòng, tiếp nhận nước từ sông Văn Úc qua cống Trung Trang, chảy qua địa bàn các quận/ huyện Kiến An, Dương Kinh, Đồ Sơn, Kiến Thụy, An Lão  sau đó nhập lại sông Văn Úc tại cống Cổ Tiểu.
I.3. Nguồn nước từ nơi khác đến
Ngoài lượng mưa, Hải Phòng còn là vùng hạ lưu của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, sông ngòi Hải Phòng được tiếp nhận lượng nước theo hai hướng từ thượng nguồn đổ về và do dòng triều từ biển dồn vào. Trung bình hàng năm tổng lượng dòng chảy qua các sông dao động từ 0,05÷1,33.109.m3
Trong các tháng mùa lũ tổng lượng dòng chảy chiếm tới 75% đến 85% lượng dòng chảy năm, những tháng mùa cạn chỉ chiếm khoảng 15% đến 25%. Về mùa cạn ngoài lượng nước từ thượng nguồn khá ổn định chảy về, ở Hải Phòng còn tiếp nhận lượng nước triều với khối lượng không nhỏ từ ngoài biển dồn vào qua các sông.
II. Hiện trạng và bất cập trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước mặt trên địa bàn thành phố
II.1. Sông Rế hiện cấp nước tưới tiêu cho hơn 10.000 ha đất canh tác nông nghiệp của huyện An Dương, đồng thời là nguồn phục vụ cho các nhà máy sản xuất nước sạch như: An Dương, Vật Cách hiện tại, Vật Cách mới, Kim Sơn, với tổng công suất là 210.000 m3/ngày đêm, sẽ tăng lên 660.000m3 ngày đêm. Bảo đảm cung cấp đủ nhu cầu nước sạch cho nhân dân các quận Lê Chân, Hồng Bàng, Ngô Quyền, Hải An và huyện An Dương, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và 3 khu công nghiệp Nomura Hải Phòng, Tràng Duệ và An Dương.
Hiện nguồn nước sông Rế đang bị ô nhiễm từ nhiều nguồn: Nước thải sinh hoạt, sản xuất của thị trấn An Dương, các xã Lê Lợi, Đặng Cương, Hồng Thái, Đồng Thái, An Đồng thoát theo tuyến kênh An Kim Hải từ cống Hà Liên theo đường 208 và 220 qua đập Cái Tắt thoát sông Lạch Tray.
Nước thải sinh hoạt của xã Nam Sơn, Bắc Sơn huyện An Dương, phường Hùng Vương quận Hồng Bàng và các doanh nghiệp phía bắc đường 5, bệnh viện Giao thông vận tải đang xả vào kênh Bắc Nam Hùng đổ vào sông Rế qua cống Tây Hà (xã Bắc Sơn) và cống An Trì (phường Hùng Vương).
Tình trạng các cơ sở sản xuất, trang trại chăn nuôi, các nghĩa trang tự phát xả nước thải, rác thải trực tiếp xuống lòng sông gây ô nhiễm nguồn nước; khu vực thị trấn An Dương có công trình xây dựng nhà kiên cố, lấn chiếm hành lang bảo vệ.
Trên hệ thống An Kim Hải có 58 điểm xả thải gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước, trong đó có 32 khu dân cư, 18 doanh nghiệp, 6 nghĩa trang, 2  bệnh viện; 423 trường hợp lấn chiếm, vi phạm hành lang bảo vệ công trình thủy lợi, đến nay đã giải tỏa  44 trường hợp. Do đó, nguồn nước sông Rế đã bị ô nhiễm bởi hàm lượng chất hữu cơ, amoni, kim loại nặng,… vượt quá tiêu chuẩn cho phép (mức A2 trong QCVN 08:2008/BTNMT).
II.2. Sông Giá thuộc hệ thống sông Bạch Đằng bắt nguồn từ sông Đá Bạc tại khu vực xã Lại Xuân chạy qua các xã thuộc phía Đông Bắc của huyện, rồi đổ vào sông Bạch Đằng tại khu vực Đầm De thuộc thị trấn Minh Đức. Sông Giá cung cấp nước tưới cho hàng ngàn ha đất sản xuất nông nghiệp, đồng thời là nguồn nước ngọt để sản xuất nước sạch cho tất cả các khu, cụm công nghiệp và dân cư trên địa bàn huyện Thủy Nguyên.
Hiện thời là sông sạch nhất thành phố nhưng cũng đang có nguy cơ bị ô nhiễm do nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa  triệt để xả trực tiếp vào nguồn nước, đáng chú ý là nước thải từ làng nghề Mỹ Đồng, đóng tàu, khai thác và chế biến khoáng sản (như khu vực khai thác khoáng sản An Sơn  thuộc đầu nguồn sông Giá), các bãi rác ven sông, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp là những tác nhân chính gây ô nhiễm nguồn nước. Hiện có 35 trường hợp xả nước thải tập trung vào nguồn nước, hàng trăm trường hợp lấn chiếm đất xây dựng hai bên bờ sông.
II.3. Sông Đa Độ có trữ lượng nước khoảng 17 triệu m3, chảy qua địa phận các quận, huyện Kiến An, Đồ Sơn, Kiến Thụy, Dương Kinh, An Lão. Hiện nay, sông Đa Độ đang đảm nhận các chức năng:
- Tưới tiêu chủ động cho sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản;
- Cấp nước thô cho các nhà máy sản xuất nước sạch của thành phố: Nhà máy nước Cầu Nguyệt (công suất 40.000 m3/ngày), sông He (10.000 m3/ngày), Hưng Đạo (dự kiến công suất 25.000 m3/ngày); ngoài ra nhà máy nước Viwaseen cấp nước thô cho Khu công nghiệp Đình Vũ. Theo quy hoạch cấp nước đến năm 2020-2025, tầm nhìn đến năm 2030, nhà máy nước Cầu Nguyệt sẽ có công suất là 200.000 m3/ngày, Hưng Đạo là 200.000 m3/ngày, Viwaseen là 170.000 m3/ngày phục vụ sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt cho nhân dân của các quận/huyện trong lưu vực sông.
Tình trạng vi phạm, lấn chiếm hành lang bảo vệ công trình thủy lợi dọc hai bên bờ sông diễn ra với nhiều hình thức như: Khoanh ao, đầm nuôi trồng thủy sản; Trồng cây lâu năm, cây ăn quả trên bờ kênh; San lấp bờ kênh để cấy lúa, trồng rau; Làm nhà tạm, kể cả nhà kiên cố trong phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi; mai táng sát bờ kênh, bờ sông, đặc biệt là nghĩa trang phường Tràng Minh-quận Kiến An.
Hiện nay, trên hệ thống sông có khoảng 11 bệnh viện lớn, nhỏ (bệnh viện Kiến An, bệnh viện Lao và bệnh phổi, bệnh viện chỉnh hình Na-uy, bệnh viện Ruồn…); khoảng 60 trạm xá xã, phường; 120 cơ sở sản xuất công nghiệp và 50 làng nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp, chăn nuôi gia súc, chế biến lương thưc, thực phẩm, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật. Hầu hết các cơ sở này đều không có công trình xử lý nước thải và xả trực tiếp gây ô nhiễm nguồn nước sông Đa Độ.
II.4. Kênh Chanh Dương là kênh tưới tiêu chính của toàn huyện Vĩnh Bảo. Kênh có chiều dài 24,5km từ cống Chanh Chử (Thắng Thủy)
đến cống 1 (Trấn Dương) đi qua địa bàn 16 xã, thị trấn của huyện. Nguồn nước chính cung cấp cho kênh Chanh Dương lấy từ sông Luộc, thông qua các công trình đầu mối cống Chanh Chử, cống Ba Đồng, cống Đồng Ngừ. Hệ thống thủy nông  bảo đảm tưới tiêu cho 10.400ha diện tích đất nông nghiệp và dân sinh kinh tế trên địa bàn huyện. Ngoài ra còn có nhiệm vụ cung cấp nước thô cho 25 trạm nước sạch trên địa bàn huyện, với công suất khoảng 3.500m3/ngàyđêm, cung cấp nước nước sạch cho 30 xã, thị trấn trên địa bàn huyện.
Ảnh hưởng do biến đổi khí hậu và nước biển dâng, thủy triều hoạt động mạnh, nước mặn dâng cao (từ 13km đến 15km), nguồn nước ngọt bị thu hẹp, bão lũ và mưa lớn xảy ra gây khó khăn cho công tác tiêu úng. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và sản xuất kinh doanh phát triển, nguồn nước thải chưa được xử lý khi xả thải ra hệ thống kênh tưới tiêu gây ảnh hưởng đến chất lượng nước.
Sản xuất nông nghiệp phát triển, thời tiết luôn diễn biến phức tạp, phát sinh nguồn sâu bệnh nhiều, ảnh hưởng từ nguồn thuốc bảo vệ thực vật ở trên đồng ruộng tiêu thoát ra các hệ thống kênh và qua kênh Chanh Dương làm ảnh hưởng đến chất lượng nước của hệ thống.
Các ao hồ trong khu dân cư nông thôn bị thu hẹp, lượng nước thải sinh hoạt và chăn nuôi trong khu dân cư nông thôn phần lớn được thải qua các kênh nhánh tưới tiêu và kênh trục ra hệ thống kênh Chanh Dương và một phần tiêu thoát trực tiếp qua các kênh và cống qua đê khác. Nước thải chưa qua xử lý của các trại chăn nuôi gia súc, gia cầm; nước thải của các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề trên địa bàn huyện Vĩnh Bảo xả thải ra các hệ thống kênh mương thủy lợi và dồn về hệ thống trung thủy nông cũng là những tác nhân làm suy giảm chất lượng nguồn nước.
II.5. Hệ thống trung thủy nông Tiên Lãng được chia tách thành 2 khu vực độc lập Bắc-Nam sông Mới, có nhiệm vụ cung cấp nước tưới, tiêu cho hơn 23.000 ha cây trồng nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, các ngành kinh tế và nước sinh hoạt. Hệ thống công trình thủy lợi trên hệ thống trung thủy nông Tiên Lãng gồm 64 cống dưới đê, 53 cống đập điều tiết nội đồng, 79 trạm bơn điện, 237,7km kênh mương-trong đó có 43km kênh trục chính.
Hiện nay toàn bộ nước thải tại các khu công nghiệp, nước thải sinh hoạt của 23 thị xã, thị trấn và Công ty TNHH Một thành viên nông nghiệp Quý Cao đều xả vào hệ thống kênh trung thủy nông Tiên Lãng. Huyện Tiên Lãng gồm 23 xã, thị trấn, dân số đông, nhiều lĩnh vực có hoạt động liên quan đến việc xả nước thải vào hệ thống như: Khu vực suối khoáng thuộc xã Bạch Đằng, khu vực da giày thị trấn Tiên Lãng, bệnh viện huyện Tiên Lãng, các chợ, khu vực nuôi trồng thủy sản Tiên Hưng; các trại lợn, trại gà trên toàn huyện; các khu vực nghĩa trang của xã trong toàn huyện. Công tác quản lý trong khai thác sử dụng và bảo vệ nguồn nước trên hệ thống trung thuỷ nông Tiên Lãng còn nhiều bất cập gây cản trở trong việc sử dụng hiệu quả và phát triển bền vững nguồn nước.
II.6. Hòn Ngọc là một con kênh nhỏ dài 28,4 km, chiều rộng lớn nhất là trên 100m, chiều rộng nhỏ nhất khoảng 36m, bắt nguồn từ sông Kinh Thày tại cống An Sơn, xã An Sơn và đổ ra sông Cửa Cấm tại cống Bính Động, xã Hoa Động. Kênh chảy uốn khúc qua địa phận 16 xã thuộc huyện Thuỷ Nguyên. Ngoài nguồn cung cấp nước chính là sông Kinh Thày, kênh Hòn Ngọc còn được cung cấp nước bởi 5 con kênh nhánh là kênh Núi Lấm, Phù Yên, Kiền Bái, Thiên Lâm và Chu. Trữ lượng nước kênh Hòn Ngọc đạt 2.106 m3.
Cùng với sông Giá, kênh Hòn Ngọc là nguồn cung cấp nước chính phục vụ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản đồng thời có nhiệm vụ quan trọng là cấp nước sinh hoạt cho dân sinh, công nghiệp, dịch vụ, phát triển giao thông thuỷ và du lịch sinh thái, góp phần cải tạo môi trường sinh thái trên địa bàn huyện. Ngoài chức năng trên, kênh Hòn Ngọc còn phải hứng chịu toàn bộ nước thải công nghiệp, dân sinh và nước mưa trên địa bàn đều tập trung để tiêu ra sông Cấm qua cống đầu mối là cống Bính Động (xã Hoa Động). Phục vụ nước tưới cho 7.328,9 ha đất sản xuất lúa, trồng màu và 345,6 ha cho nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt; cung cấp nước sinh hoạt với sản lượng trung bình 11.050 m3/ngày.đêm. Cung cấp nước thô cho các công ty, nhà máy lớn trong khu vực.
Hiện nay chưa có điều tra chính thức nào về chất lượng môi trường nước kênh Hòn Ngọc nhưng đây là con kênh chịu sự xả thải của tất cả các ngành nghề sản xuất kinh doanh, nước thải dân sinh của 16 xã mà kênh chảy qua. Điều này đã ảnh hưởng đến chất lượng nước của kênh Hòn Ngọc, ảnh hưởng đến nguồn nước ngọt cung cấp cho các hoạt động sản xuất, dân sinh trên địa bàn. Thực trạng khai thác, sử dụng nguồn nước, xả nước thải vào nguồn nước kênh Hòn Ngọc cho thấy một số nguyên nhân hoặc nguy cơ làm suy thoái chất lượng nước kênh Hòn Ngọc.
3. Nguyên nhân gây ô nhiễm làm suy giảm chất lượng nguồn nước
Quá trình nghiên cứu đánh giá hiện trạng và các vấn đề bất cập trong khai thác sử dụng nước mặt trên hệ thống các sông: Rế, Giá, Đa Độ, Chanh Dương; kênh Hòn Ngọc và hệ thống trung thuỷ nông Tiên Lãng cho thấy tác nhân gây ô nhiễm nguồn nước của các hệ thống bao gồm:
III.1. Ô nhiễm nguồn nước do các hoạt động xả thải.
- Nguồn dư lượng thuốc trừ sâu và bảo vệ thực vật; trong quá trình canh tác nông nghiệp, một phần lớn dư lượng thuốc trừ sâu, bảo vệ thực vật đã theo đường tiêu thoát nước đi vào nguồn nước là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước mặt.
- Nước thải từ các khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp, không qua xử lý hoặc xử lý không đạt yêu cầu thải vào hệ thống các sông nói trên.
- Nguồn thải từ các bệnh viện, trung tâm y tế quận, huyện, trạm y tế của các xã, phường. Đây là một tác nhân hết sức nguy hiểm gây ô nhiễm, các chất thải nguy hại (chất thải y tế) rất khó xử lý.
- Các nghĩa trang nằm dọc theo các bờ sông: từ tập quán, phong tục của từng vùng miền việc an táng, cát táng gây ra mất vệ sinh ô nhiễm nguồn nước.
- Các trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm có quy mô lớn của các địa phương được bố trí chăn nuôi sát cạnh các nguồn nước trong khi công tác thu gom xử lý chất thải rắn, nước thải chưa được quan tâm xử lý đúng tiêu chuẩn kỹ thuật.
- Các bãi rác chôn lấp rác thải sinh hoạt của các xã, thị trấn thường được bố trí cạnh các dòng sông, hệ thống công trình thuỷ lợi không được xây dựng đúng quy trình đã biến thành nguy cơ gây ô nhiễm nghiêm trọng cho nguồn nước mặt.
- Nước thải sinh hoạt của các khu dân cư không được thu gom xử lý chảy trực tiếp tới nguồn nước cũng là những nguồn gây ô nhiễm nghiêm trọng.
- Giao thông vận tải thuỷ trên các sông: Rế, Giá, Đa Độ, Chanh Dương; kênh Hòn Ngọc và hệ thống trung thuỷ nông Tiên Lãng làm nguồn nước ô nhiễm dầu mỡ ảnh hưởng đến chất lượng nước mặt các hệ thống này.
III.2. Các nguồn nước của thành phố là hạ lưu của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình do vậy phải chịu toàn bộ lượng chất thải từ thượng nguồn của hai hệ thống sông này dồn về. Đây là một trong các tác nhân quan trọng trong việc quản lý liên quan đến liên vùng, liên tỉnh của các cấp có thẩm quyền chỉ đạo. Cần phải có sự phối hợp giữa các tỉnh thành phố và Bộ ngành Trung ương.
III.3. Đầu tư ngân sách cho các công trình bảo vệ nguồn nước còn hạn chế.
III.4. Nhận thức của doanh nghiệp, cộng đồng dân cư đối với việc khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước không đầy đủ và toàn diện, chưa nhận thức hết tầm quan trọng của nguồn nước ngọt.
III.5. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật chưa hiệu quả, chưa đạt được chuyển biến trong ý thức, nhận thức, chấp hành, thực thi pháp luật của nhân dân, doanh nghiệp, nhất là một bộ phận cán bộ, công chức  làm công tác quản lý nguồn nước ở các cấp.
III.6. Công tác quản lý nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu, chưa thật sự có sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ngành và chính quyền địa phương và các đơn vị liên quan. Trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan quản lý nhà nước chưa được đề cao; các cơ quan quản lý nhà nước chưa thực hiện đúng các quy định, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
III.7. Hải Phòng là thành phố cửa sông ven biển, quá trình dâng cao của mực nước biển, tác động của thuỷ triều làm tăng nguy cơ ngập lụt và xâm nhập mặn các địa phương ven biển. Xâm nhập mặn bị đẩy sâu vào trong đất liền sẽ gây mất cân bằng hệ sinh thái, mục đích canh tác sử dụng đất và ô nhiễm nguồn nước ngọt. Ngoài ra biến đổi khí hậu và nước biển dâng còn ảnh hưởng và đe dọa đến sự phát triển kinh tế bền vững.
IV. Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp bảo vệ nguồn nước ngọt trên địa bàn thành phố giai đoạn 2013-2020
IV.1. Mục tiêu tổng quát:
Bảo đảm số lượng, chất lượng nguồn nước ngọt, phục hồi chất lượng nguồn nước ngọt của các sông Đa Độ, sông Giá, sông Rế, sông Chanh Dương, kênh Hòn Ngọc và hệ thống trung thuỷ nông Tiên Lãng đảm bảo cho nhu cầu, đời sống nhân dân; sản xuất của các ngành kinh tế-xã hội của thành phố.
IV.2. Mục tiêu cụ thể:
- Giai đoạn 2013-2015: + Thống kê lập biên bản đình chỉ; lập kế hoạch di chuyển các công trình xây dựng vi phạm hành lang bảo vệ. Ngăn chặn các nguồn phát sinh gây ô nhiễm mới ảnh hưởng đến các nguồn nước ngọt. Từng bước cải thiện tình trạng suy thoái, ô nhiễm các sông Rế, sông Giá, sông Đa Độ, duy trì chất lượng nguồn nước đối với sông Chanh Dương, kênh Hòn Ngọc và hệ thống trung thủy nông Tiên Lãng như chỉ số kiểm soát năm 2013.
+ 100% số các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư trên địa bàn thành phố nâng cao ý thức trách nhiệm về bảo vệ nguồn nước. 100% số cán bộ, công chức làm công tác quản lý tài nguyên nước và môi trường các cấp được tập huấn, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ. 
+ Kiểm soát 70% lượng nước được xử lý trước khi thải ra môi trường các lưu vực sông; bảo đảm thu gom toàn bộ lượng nước thải, không để xả thải trực tiếp ra sông, trước mắt đối với các sông: Giá, Rế, Đa Độ, Chanh Dương, kênh Hòn Ngọc, hệ thống trung thuỷ nông Tiên Lãng.
+ Lập bản đồ địa chính, xác định hành lang bảo vệ, cắm mốc chỉ giới ngoài thực địa.
+ Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước; phân cấp, xác định rõ chủ thể quản lý các sông; xây dựng quy chế phối hợp bảo vệ nguồn nước giữa các ngành, địa phương.
- Giai đoạn 2016-2020:
+ Phấn đấu đến năm 2020 chất lượng nước của các sông Rế, sông Giá, sông Đa Độ, sông Chanh Dương, kênh Hòn Ngọc và hệ thống trung thuỷ nông Tiên Lãng có độ sạch cho phép theo các tiêu chuẩn hiện hành về cấp nước cho các mục đích khai thác, sử dụng; duy trì và áp dụng đồng bộ, thường xuyên có hiệu quả công tác bảo vệ nguồn nước trên hệ thống các sông này.
+ Trong phạm vi hành lang, bảo vệ nguồn nước không còn công trình xây dựng trái phép tồn tại, không còn các cửa xả trực tiếp nước thải vào nguồn nước.
V. Nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ nguồn nước ngọt trên địa bàn thành phố
V.1. Tuyên truyền, nâng cao ý thức, trách nhiệm của tổ chức, cộng đồng dân cư trong  khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn nước ngọt có ý nghĩa quyết định đối với sự sống.
- Xây dựng mô hình quản lý, bảo vệ nguồn nước có sự tham gia của cộng đồng dân cư.
- Ứng dụng mô hình quản lý, bảo vệ tài nguyên nước với quan điểm nước là tài sản chung, khả năng áp dụng các mô hình quản lý, bảo vệ nguồn nước với quan điểm nước là hàng hóa kinh tế. Triển khai việc giáo dục ngoại khóa về bảo vệ tài nguyên nước và môi trường cho toàn bộ học sinh tiểu học và THCS trên địa bàn thành phố.
- Tạo sự chuyển biến nhận thức bảo vệ nguồn nước đối với toàn xã hội về tình trạng ô nhiễm, tầm quan trọng của việc phải bảo vệ, cải thiện chất lượng  các nguồn nước ngọt trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
V.2. Tăng cường kiểm soát các nguồn thải gây ô nhiễm nguồn nước, kiểm soát chặt chẽ hoạt động khai thác và sử dụng nước bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả và bền vững; đánh giá được hiện trạng khai thác sử dụng và nhu cầu sử dụng nước của cơ sở khai thác, sử dụng nguồn nước; sử dụng nguồn nước phải có Giấy phép khai thác, sử dụng theo quy định.
- Thống kê, kiểm kê các nguồn xả thải vào nguồn nước; phân vùng nguồn nước theo mục đích khai thác, sử dụng, bảo vệ các sông Rế, sông Giá, sông Đa Độ, sông Chanh Dương, kênh Hòn Ngọc và hệ thống trung thuỷ nông Tiên Lãng.
- Thiết lập, xây dựng cơ sở dữ liệu, thông tin và ứng dụng mô hình tổng thể để đánh giá và dự báo một cách hệ thống và đầy đủ diễn biến số lượng, chất lượng nguồn nước mặt của thành phố; phạm vi, mức độ và các mối quan hệ giữa các nguồn gây ô nhiễm tới chất lượng nguồn nước các sông cấp nước ngọt.
- Xử lý những vi phạm pháp luật về khai thác và xả thải vào nguồn nước. Chặn đứng các nguồn xả thải vào nguồn nước, điều tra, thống kê, kiểm kê các cơ sở phát thải gây ô nhiễm nguồn nước, quan trắc phân tích theo tiêu chuẩn hiện hành, buộc các cơ sở sản xuất có phát thải phải có giấy phép xả thải mới được xả thải vào môi trường.
- Lập danh mục các vị trí xả thải (nước thải, rác thải), kế hoạch xử lý triệt để, không để hình thành các bãi rác gần nguồn nước, gây ô nhiễm nước.
- UBND cấp huyện rà soát các nghĩa trang, thống kê số lượng mồ mả lập quy hoạch phương án, lộ trình di dời theo quy hoạch nông thôn mới và tiêu chuẩn vệ sinh quy định.
- Xây dựng các trạm quan trắc cố định, quan trắc định kì, thường xuyên thông báo các thông tin, dữ liệu chính về chất lượng nguồn nước các sông, phấn đấu đến năm 2016-2020 các trạm quan trắc được nâng cấp thành trạm quan trắc tự động.
V.3. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phục vụ quản lý tài nguyên nước; chủ động xây dựng các cơ chế, chính sách kiểm soát ô nhiễm nguồn nước liên tỉnh Hải Phòng-Hải Dương-Thái Bình, Hải phòng- Quảng Ninh; liên vùng: Hải Phòng-Quảng Ninh, Đồng Bằng Sông Hồng trong cùng một lưu vực sông nhằm bảo đảm yêu cầu kiểm soát tổng thể, toàn diện về tổng trữ lượng và chất lượng nước trong các lưu vực sông trước khi chảy vào Hải Phòng.
- Rà soát, quy định cụ thể, rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể đối với từng sở, ban, ngành trong quản lý tổng hợp và thống nhất về tài nguyên nước trên địa bàn thành phố tránh chồng chéo, cản trở việc thực thi các nhiệm vụ.
- Tiến hành thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định về khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước đối với toàn bộ các nguồn nước ngọt. Xây dựng quy chế, giám sát, phối hợp trong xử lý vi phạm hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước.
V.4. Rà soát quy hoạch hệ thống các công trình thủy lợi, quy hoạch hệ thống thu gom; phân chia lưu vực, tiểu vùng thoát nước mặt, xác định đúng, đủ số lượng công trình, trạm xử lý nước thải, hạn chê, tiến tới chấm dứt tình trạng nước thải, nước chảy tràn trên bề mặt đổ, xả trực tiếp vào các nguồn nước trên địa bàn thành phố.
- Lập quy hoạch hành lang và cắm mốc bảo vệ các nguồn nước ngọt chống xâm nhập mặn của thành phố; thực hiện quy hoạch và đầu tư hệ thống hạ tầng kỹ thuật về cấp thoát nước, thu gom xử lý nước thải, chất thải rắn, giao thông đường thủy, di chuyển các nghĩa trang, bãi rác trong phạm vi bảo vệ.
- Xây dựng quy hoạch hệ thống thu gom nước thải, nước mưa tại các khu vực dân cư tập trung thuộc lưu vực các nguồn nước ngọt giai đoạn 2013-2015; lập quy hoạch  đối với các sông Rế; sông Đa Độ; kênh Hòn Ngọc.
- Xây dựng các công trình bảo vệ lòng dẫn, bảo vệ hai bên bờ sông (đắp bờ sông, kè 2 bên bờ sông), kè đất, trồng cây chống xói lở (chú ý giải pháp phi công trình).
- Giải tỏa các công trình xây dựng trong phạm vi, chỉ giới bảo vệ nguồn nước sau khi cắm mốc giai đoạn 2013-2015, giải tỏa các công trình mới phát sinh trái phép hành lang bảo vệ nguồn nước, có lộ trình di dời từ năm 2015-2020.
- Xây dựng các đập điều tiết ở đầu kênh nhánh, ưu tiên xây dựng đập điều tiết kết hợp với giao thông tại Gảnh Chè nhằm ngọt hóa đoạn sông Thái Bình, đảm bảo cấp nước ngọt cho khu vực Vĩnh Bảo và Tiên Lãng để ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
V.5. Xây dựng chương trình kiểm soát nguồn gây ô nhiễm phân tán trong lưu vực các sông, kênh.
- Điều tra, khảo sát, khoanh vùng các khu vực có nguồn thải phân tán, đối tượng phát thải; lập phương án kiểm soát nguồn thải phân tán đối với từng đối tượng xả thải nhỏ.
- Trồng cây trên các bãi lọc nhằm giảm vận tốc dòng chảy, tăng khả năng lắng cặn trên bãi; giảm xói mòn và sục cặn từ đáy; ngăn gió và tạo bóng, giảm sự phát triển của thực vật nổi; phân hủy các chất hữu cơ, loại bỏ N, P và diệt vi trùng gây bệnh; duy trì hồ sinh học đã có, tạo mới các hồ trên cơ sở ao, hồ, đầm hiện nay nhằm tạo điều kiện cho quá trình chuyển hóa các chất bẩn.
- Xây dựng mô hình thí điểm để đánh giá hiệu quả trước khi triển khai đồng bộ.
V.6. Giải pháp về hợp tác quốc tế.
Tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo, học tập kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật và tranh thủ các nguồn viện trợ của Chính phủ các nước và các tổ chức phi chính phủ hổ trợ tài chính cho lĩnh vực quản lý nhà nước về tài nguyên nước.
V.7. Giải pháp về cơ chế chính sách và nguồn vốn thực hiện.
Giao UBND thành phố trình HĐND thành phố ban hành cơ chế chính sách thuộc thẩm quyền để đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ nguồn nước ngọt tại các sông Rế, Giá, Đa Độ, Chanh Dương; kênh Hòn Ngọc; hệ thống trung thủy nông Tiên Lãng trên địa bàn thành phố giai đoạn 2013-2020, đặc biệt quan tâm đến nguồn ngân sách trung ương từ các chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và nguồn kinh phí sự nghiệp môi trường hàng năm của thành phố.
Phần III
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
- Trên cơ sở Nghị quyết của HĐND thành phố, UBND thành phố xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể và giao nhiệm vụ cho các cấp, các ngành, đơn vị tổ chức triển khai thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết đã đề ra.
- Thường trực HĐND thành phố, các Ban HĐND, Tổ đại biểu HĐND và các đại biểu HĐND thành phố đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết này.
- Đề nghị Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố và các đoàn thể, tổ chức xã hội tuyên truyền, quán triệt, tổ chức đoàn viên, hội viên tích cực tham gia thực hiện Nghị quyết; đồng thời giám sát việc thực hiện Nghị quyết ở các địa phương, đơn vị.
Danh mục kế hoạch, đề án, dự án, công trình ưu tiên tăng cường nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ nguồn nước ngọt trên địa bàn thành phố giai đoạn 2013-2020 (có danh mục kèm theo).
Đề án tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng đến năm 2020, định hướng đến năm 2025
Cập nhật lúc09:49, Thứ Hai, 11/11/2013 (GMT+7)
Điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh nền kinh tế thành phố bảo đảm  yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đến năm 2020, định hướng đến năm 2025
(Dự thảo báo cáo tóm tắt đề án của UBND thành phố trình kỳ họp thứ 7 HĐND thành phố khóa 14)
Đề án “Điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh nền kinh tế thành phố bảo đảm  yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đến năm 2020, định hướng đến năm 2025” bao gồm các nội dung chính sau:
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết xây dựng Đề án
Qua gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo, thành phố đã đạt được những thành tựu khá toàn diện và rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Kinh tế tăng trưởng nhanh, tốc độ tăng trưởng GDP liên tục đạt ở mức khá, quy mô kinh tế được mở rộng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, quy mô nền kinh tế còn nhỏ tốc độ tăng trưởng nền kinh tế chưa đạt được mục tiêu đề ra, tăng trưởng chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư và số lượng lao động, yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) chưa đóng góp nhiều, cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu đầu tư bộc lộ nhiều bất cập, hiệu quả thấp, chất lượng tăng trưởng, khả năng cạnh tranh hạn chế, nguy cơ ô nhiễm môi trường tăng cao. Những hạn chế, yếu kém đó càng bộc lộ rõ rệt hơn khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Vì vậy, cần thiết xây dựng đề án để đánh giá được đầy đủ thực trạng cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng của thành phố, trên cơ sở đó đề xuất định hướng điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng nâng cao sức cạnh tranh, bảo đảm  phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế thành phố trong thời gian tới.
2. Các căn cứ xây dựng Đề án
- Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 11, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 14;
- Các Nghị quyết, Kết luận của Hội nghị Trung ương lần thứ 3, 6 (khóa 11);
- Nghị quyết số 11/2011/NQ-HĐND ngày 21-7-2011 của HĐND thành phố về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh thành phố 5 năm (2011-2015);
- Các Thông báo của Thành ủy: số 114-TB/TU ngày 1-10-2012 và số 143-TB/TU ngày 15-1-2013 về Đề án “Điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh nền kinh tế thành phố bảo đảm  yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đến năm 2020, định hướng đến năm 2025”;
- Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 19-2-2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020;
3. Phạm vi và mục đích xây dựng đề án
Phạm vi của Đề án: Nền kinh tế thành phố trong giai đoạn 2001-2025.
Mục đích của việc xây dựng Đề án: Cụ thể hóa chủ trương, đường lối, Nghị quyết của Đảng, Thành ủy; Nâng cao sức cạnh tranh của thành phố, phấn đấu nằm trong danh sách các thành phố có sức cạnh tranh của khu vực; Phát huy tác động lan tỏa của kinh tế thành phố, cực tăng trưởng, cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc; Thành phố đạt trình độ cao về phát triển kinh tế - xã hội.
PHẦN THỨ NHẤT
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng của thành phố giai đoạn 2001-2010
 I. CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THÀNH PHỐ GIAI ĐOẠN 2001-2010
1. Cơ cấu ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế diễn ra liên tục, theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng tỷ trọng ngành dịch vụ, công nghiệp - xây dựng, giảm tỷ trọng ngành nông - lâm - thủy sản.
Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp có sự thay đổi tích cực theo hướng tập trung phát triển các ngành công nghiệp chủ lực có lợi thế, tiềm năng (9 nhóm ngành chủ lực chiếm tỷ trọng 89,84% giá trị sản xuất công nghiệp trên toàn địa bàn); tỷ trọng các ngành công nghiệp thâm dụng lao động giảm dần, các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao như điện, sản xuất điện tử, thiết bị điện có tốc độ tăng trưởng cao hơn bình quân chung toàn ngành. Mặc dù vậy, sự phát triển của nội bộ các ngành công nghiệp của thành phố còn nhiều hạn chế và thiếu tính bền vững.
Cơ cấu nội bộ ngành dịch vụ chuyển dịch không đáng kể, chủ yếu giữa thương mại và vận tải, kho bãi; hai ngành này luôn chiếm khoảng 50% tổng giá trị gia tăng ngành dịch vụ của thành phố. Các ngành dịch vụ giá trị cao và hiện đại như tài chính - tín dụng - ngân hàng có tỷ trọng tương đối thấp và hầu như không thay đổi, thường chiếm khoảng 2-3% tổng giá trị gia tăng ngành dịch vụ.
Cơ cấu nội bộ nhóm ngành nông - lâm - thủy sản có sự chuyển biến khá tích cực, nông nghiệp giảm, thủy sản tăng; giảm trồng trọt, tăng chăn nuôi trong nông nghiệp; tăng nuôi trồng, giảm khai thác trong lĩnh vực thủy sản.
2. Cơ cấu thành phần kinh tế
Cơ cấu kinh tế theo thành phần trong giai đoạn vừa qua chủ yếu là chuyển dịch trong khu vực kinh tế trong nước (tỷ trọng của thành phần kinh tế nhà nước giảm dần, kinh tế tập thể sụt giảm mạnh, kinh tế ngoài nhà nước tăng liên tục qua các năm); khu vực có vốn nước ngoài giữ ổn định, chiếm khoảng 15% GDP toàn thành phố.
3. Cơ cấu đầu tư
Cơ cấu đầu tư theo ngành đã có sự chuyển dịch rõ theo hướng tập trung ngày càng nhiều hơn cho dịch vụ, giảm công nghiệp và nông nghiệp.
Cơ cấu đầu tư theo khu vực chuyển dịch tích cực, đầu tư từ khu vực nhà nước giảm rõ rệt, khu vực ngoài nhà nước tăng nhanh, khu vực đầu tư nước ngoài tăng. Vốn nhà nước tập trung hơn cho những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là lĩnh vực hạ tầng (đầu tư cho hệ thống hạ tầng bao gồm cả hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội chiếm khoảng 60% tổng đầu tư công); vốn ngoài ngân sách thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ.
 Cơ cấu đầu tư theo nội dung đầu tư không có sự chuyển dịch đáng kể, đầu tư cho tài sản vật chất thường chiếm trên 98%, đầu tư cho tài sản vô hình chưa đến 2%.
4. Cơ cấu xuất nhập khẩu
Cơ cấu xuất nhập khẩu đã có sự thay đổi đáng kể. Về xuất khẩu, tỷ trọng xuất khẩu của kinh tế trung ương của thành phố tương đối ổn định qua các năm và giữ ở mức thấp, khoảng hơn 10%; tỷ trọng xuất khẩu của khu vực kinh tế địa phương giảm gần một nửa; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nổi lên là nhà xuất khẩu hàng đầu với tỷ trọng xuất khẩu đã tăng hơn gấp đôi, lên mức hơn 63% vào năm 2010 và 57% vào năm 2011.
Đối với nhập khẩu, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục là nhà nhập khẩu hàng đầu với tỷ trọng 65,6% năm 2010 và 61,2% vào năm 2011; khu vực kinh tế trung ương, kinh tế địa phương đều giảm.
5. Cơ cấu lao động
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển dịch tích cực, phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, thành phần kinh tế: Số lượng và tỷ trọng lao động làm việc trong ngành nông lâm thủy sản giảm; lao động trong ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng cả về số lượng và tỷ trọng; tỷ trọng lao động ngành công nghiệp chế biến tăng. Tỷ trọng lao động khu vực kinh tế nhà nước và ngoài nhà nước giảm không đáng kể, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng.
II. MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG CỦA THÀNH PHỐ GIAI ĐOẠN 2001-2010
1. Kinh tế thành phố chủ yếu tăng trưởng theo chiều rộng, dựa chủ yếu vào tăng vốn đầu tư.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2001-2010 của thành phố là 11,2%/năm. Trong đó, yếu tố vốn đóng góp cao nhất, đạt bình quân 47,3% và có xu hướng tăng dần; yếu tố lao động đóng góp 15,58% và có xu hướng giảm nhanh qua các năm; yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp bình quân 26,9% nhưng không đều qua các năm.
 Xét theo ngành, đóng góp của yếu tố TFP trong ngành nông lâm thủy sản là cao nhất với 65,69%, ngành công nghiệp - xây dựng là 14,57% và ngành dịch vụ thấp nhất với 11,91%. Tính theo sở hữu, đóng góp của TFP trong khu vực nhà nước là -22,31%, khu vực ngoài nhà nước là 42,01% và khu vực FDI là -28,06%.
So với cả nước (19,6%) và so với mức phổ biến ở các nước đang phát triển là 20-30% thì TFP của thành phố là phù hợp với trình độ phát triển chung. Tuy nhiên, so với một số nước đang phát triển ở khu vực châu Á (Ấn Độ là 31%, Trung Quốc là gần 36%, Thái Lan và Malaixia đều hơn 36%...) thì TFP của thành phố thấp hơn nhiều.
2. Tăng trưởng kinh tế dựa vào các ngành gia công có chi phí trung gian cao, giá trị tăng thêm thấp
Trong tổng giá trị sản xuất của thành phố, tỷ lệ chi phí trung gian là 67,65%; tỷ lệ giá trị gia tăng là 32,35%. Tốc độ tăng của chi phí trung gian luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng của giá trị sản xuất và giá trị gia tăng. Sản xuất của các khu vực kinh tế, đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài mang tính chất gia công là chính (nguyên, vật liệu, máy móc thiết bị cho sản xuất đa phần là nhập từ nước ngoài); đa số các doanh nghiệp của thành phố hiện đang sử dụng các thiết bị công nghệ cũ, lạc hậu, tiêu hao nhiều năng lượng nên chi phí đầu vào của quá trình sản xuất chiếm tỷ lệ lớn trong giá thành sản phẩm và có xu hướng ngày càng tăng.
Công nghiệp chế biến đóng góp chủ yếu trong GDP của ngành công nghiệp song hầu hết đều là các ngành gia công có chi phí trung gian cao, lệ thuộc vào đầu vào nhập khẩu, giá trị gia tăng thấp. Tỷ lệ giá trị gia tăng trên giá trị sản xuất của ngành công nghiệp chế biến chỉ đạt 20,4%.
3. Tăng trưởng kinh tế dựa vào phát triển các khu công nghiệp nhưng các khu công nghiệp chưa thể hiện được vai trò trụ cột.
Mặc dù khu công nghiệp đầu tiên trên địa bàn thành phố được thành lập từ năm 1994 nhưng cho đến nay đóng góp của các khu công nghiệp cho nền kinh tế thành phố chưa nhiều. Tỷ lệ lấp đầy của các khu công nghiệp đang hoạt động là gần 50%, số lượng doanh nghiệp trong khu, cụm công nghiệp chỉ chiếm 8,7% số lượng doanh nghiệp công nghiệp toàn thành phố; thu ngân sách từ các khu kinh tế, khu công nghiệp chỉ đạt khoảng 2,6% tổng thu ngân sách của thành phố và đạt 16,6% thu nội địa; số lao động trong khu kinh tế, khu công nghiệp chỉ chiếm gần 3% tổng lao động đang làm việc trên địa bàn thành phố và chiếm 16,8% lao động ngành công nghiệp.
Các khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế hiện nay mới phát triển theo chiều rộng, ít chú trọng tới các yếu tố làm tăng chất lượng như đào tạo nhằm nâng cao trình độ cho người lao động, bảo đảm phúc lợi xã hội cho người lao động. Suất đầu tư trên một đơn vị diện tích đất còn thấp; hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng sản phẩm chỉ ở mức khiêm tốn, chất lượng các dự án đầu tư chưa cao, ít dự án công nghệ cao từ các tập đoàn xuyên quốc gia. Các khu công nghiệp, cụm công nghiệp thiếu tính liên kết, không hình thành được các chuỗi, mạng sản xuất, phát triển số lượng đi trước nhiều so với xây dựng hạ tầng kỹ thuật, xử lý chất thải và quản lý môi trường.
4. Tăng trưởng dựa vào khu vực kinh tế nhà nước, lấy khu vực doanh nghiệp nhà nước làm điểm tựa
Mặc dù tỷ trọng khu vực kinh tế nhà nước trong GDP chung của thành phố hiện nay giảm so với năm 2000 nhưng khu vực kinh tế nhà nước (chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc các Tập đoàn, Tổng Công ty nhà nước của Trung ương) vẫn nắm giữ những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế thành phố như hàng không, bến cảng, đóng tàu, điện và sở hữu một khối lượng tài sản, vốn lớn nhất. Sự phát triển của các Tập đoàn kinh tế, các Tổng Công ty nhà nước Trung ương trong thời gian qua đã thúc đẩy kinh tế thành phố tăng trưởng với tốc độ khá cao và là một bộ phận cấu thành quan trọng của cơ cấu kinh tế thành phố (khu vực kinh tế nhà nước Trung ương đóng góp tới 21,1% vào năm 2010 và 22,1% vào năm 2011 tổng GDP toàn thành phố).
Tuy nhiên, kết quả sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế nhà nước còn kém hiệu quả, đặc biệt là sự khủng hoảng của Tập đoàn Vinashin và gần đây là việc kinh doanh thua lỗ của các công ty thuộc Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam  đã ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế thành phố. Theo số liệu thống kê, năm 2011 số doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn thành phố chiếm 1,7% số lượng doanh nghiệp đang hoạt động tại thời điểm 31-12 nhưng chiếm tới 34,65% tổng vốn sản xuất kinh doanh và chỉ chiếm 14,5% tổng doanh thu thuần và tạo ra 16,7% tổng số việc làm.
Các doanh nghiệp nhà nước của địa phương chưa thực sự nổi bật, chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích. Năm 2011, có 11/28 doanh nghiệp được xếp loại A, 13/28 doanh nghiệp xếp loại B, 2/28 doanh nghiệp xếp loại C và 2 doanh nghiệp hoạt động thua lỗ nhiều năm, trong đó 1 doanh nghiệp đã ngừng hoạt động từ năm 2006.
5. Tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, nhưng cơ cấu xuất khẩu chậm thay đổi, chủ yếu hàng sơ chế, hàm lượng giá trị gia tăng trong sản phẩm xuất khẩu không cao.
Trong giai đoạn vừa qua, tăng trưởng kinh tế thành phố phụ thuộc vào xuất khẩu, tỷ trọng xuất khẩu so với GDP đạt gần 60%. Cơ cấu xuất khẩu của thành phố trong 10 năm qua thay đổi không đáng kể, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vẫn là giày dép, thủy sản, bao bì…. Trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu có tới 8 mặt hàng thô, sơ chế, chỉ có hai mặt hàng chế biến là may mặc và giày dép nhưng hai ngành này cũng chỉ ở dạng gia công, các công đoạn tạo ra giá trị gia tăng cao đều ở nước ngoài.
Các thị trường xuất khẩu lớn của thành phố trong 10 năm qua hầu như không thay đổi, vẫn là các nước Đông Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Những kết quả đạt được
- Kinh tế thành phố duy trì được ổn định và phát triển, GDP tăng trưởng liên tục với tốc độ tương đối cao trong giai đoạn 2001-2011. Một số mặt của chất lượng tăng trưởng kinh tế đã được nâng lên. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng liên tục qua các năm; Cân đối được thu – chi ngân sách và là một trong mười ba tỉnh, thành phố có điều tiết về ngân sách Trung ương.
- Nền kinh tế thành phố ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Độ mở của nền kinh tế ngày càng tăng. Thị trường xuất khẩu của thành phố đã mở rộng tới 82 quốc gia và vùng lãnh thổ. Thu hút FDI của thành phố đã có sự tăng trưởng vượt bậc, đặc biệt từ năm 2011 trở lại đây đã thu hút được một lượng lớn vốn FDI, bằng hơn 30% tổng vốn thu hút từ trước tới nay và năm 2012 đứng thứ hai toàn quốc.
Theo Báo cáo năng lực hội nhập kinh tế quốc tế cấp địa phương năm 2010 do Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế thực hiện, Hải Phòng có tổng điểm xếp thứ 4 trong tổng số 50 địa phương được đánh giá và được xếp vào nhóm các địa phương có năng lực hội nhập kinh tế quốc tế tốt, trong đó tiêu chí về cơ sở hạ tầng Hải Phòng đứng thứ nhất. Quan hệ hợp tác hữu nghị với các địa phương trên thế giới ngày càng được mở rộng, từng bước tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế.
- Nhiều vấn đề xã hội đã bước đầu được giải quyết: Lao động có việc làm ngày càng được nâng lên; Tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị giảm; Thu nhập bình quân đầu người cũng ngày càng được cải thiện, GDP bình quân đầu người tăng 3,7 lần. Tỷ lệ hộ nghèo liên tục giảm qua các năm; Hệ số chênh lệch giữa nhóm giàu và nhóm nghèo trên địa bàn thành phố ở mức thấp so với các thành phố khác trực thuộc Trung ương.
2. Tồn tại, hạn chế
2.1. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng hướng nhưng còn chậm và chất lượng chưa cao
- Tỷ trọng đóng góp của nhóm ngành nông - lâm - thủy sản trong GDP còn cao. Nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao trong nhóm ngành nông -lâm - thủy sản; cơ cấu các loại cây thay đổi chậm, diện tích trồng cây lương thực chiếm tới 76% tổng diện tích gieo trồng, các loại cây có giá trị kinh tế cao tuy có tăng về diện tích nhưng tốc độ tăng thấp, bình quân 3,1%/năm, tốc độ tăng của cây công nghiệp hàng năm chỉ là 1,26%/năm.
- Cơ cấu ngành công nghiệp bộc lộ những bất hợp lý: nhóm ngành gia công, sử dụng nhiều lao động, giá trị gia tăng thấp chiếm tỷ trọng cao tới 98% và duy trì trong thời gian quá dài; những ngành công nghiệp có lợi thế, giá trị gia tăng lớn, sử dụng tiết kiệm tài nguyên, năng lượng, lao động chất lượng cao vẫn chiếm tỷ trọng thấp, đặc biệt là công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển. Tỷ lệ nội địa hóa của các ngành công nghiệp chủ lực còn thấp.
- Các ngành dịch vụ giá trị cao và hiện đại như tài chính, tín dụng, ngân hàng có tỷ trọng tương đối.
- Tỷ trọng của khu vực có vốn nước ngoài trong GDP còn thấp, chiếm khoảng 15% và không có sự biến động lớn trong giai đoạn vừa qua.
- Cơ cấu đầu tư mất cân đối, thiên về đầu tư vật chất kỹ thuật, đầu tư hình thành tài sản vốn con người và khoa học công nghệ chưa được quan tâm. 
2.2. Hiệu quả, chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp
- GDP bình quân đầu người, năng suất lao động xã hội thấp hơn so với các thành phố trực thuộc Trung ương khác và thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực.
- Tỷ trọng đóng góp của TFP chỉ đạt 26,9% trong khi ở các nước phát triển thường trên 50% và nhiều nước đang phát triển ở châu Á cũng thường trên 30%.
- Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP luôn ở mức cao trên 50%. Hệ số ICOR cao và có xu hướng gia tăng, năm 2001 là 4,5, năm 2010 là 5,1, nền kinh tế ngày càng cần nhiều vốn hơn cho tăng trưởng. 
- Tốc độ tăng GDP luôn thấp hơn tốc độ tăng giá trị sản xuất, hiệu quả tăng trưởng kinh tế còn thấp. Tỷ lệ giữa lợi nhuận thực hiện và giá trị sản xuất rất thấp và đang có xu hướng giảm.
- Thâm hụt thương mại có xu hướng ngày càng tăng. Mặc dù trong giai đoạn 2001-2010 có một số năm có thặng dư thương mại nhưng mức độ thặng dư không lớn, trong khi đó những năm thâm hụt thì mức độ thâm hụt rất lớn và liên tục từ năm 2004 đến nay.
- Cơ cấu thu ngân sách còn nhiều bất cập, thu hải quan cao, thu nội địa thấp dẫn đến chưa đáp ứng được yêu cầu chi, mới cơ bản đáp ứng được nhu cầu chi tiêu thường xuyên theo dự toán và các khoản chi phát sinh đột xuất của thành phố, chi đầu tư phát triển còn rất thấp, chỉ đáp ứng được 20-30% nhu cầu tối thiểu.
2.3. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thấp
- Năng lực cạnh tranh của thành phố nằm chung trong năng lực cạnh tranh của quốc gia. Trong 3 năm 2010 - 2012, Việt Nam liên tục đi xuống về năng lực cạnh tranh, không chỉ cả về thứ hạng mà cả điểm số đánh giá.
- Hải Phòng chưa được xếp hạng, đánh giá trong các Báo cáo về năng lực cạnh tranh của các thành phố do các Tổ chức quốc tế có uy tín tiến hành. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Hải Phòng trong những năm qua chỉ đạt ở trung bình và thường thấp nhất trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương.
- Các doanh nghiệp chưa xây dựng được thương hiệu mạnh, chưa khẳng định được uy tín chất lượng và năng lực cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp ở Hải Phòng còn ở mức khiêm tốn, chủ yếu vẫn là cơ khí hóa, tỷ lệ tự động hóa chưa đạt 15%. Trong số 500 Công ty lớn hàng đầu của thế giới năm 2012 chỉ có 10 Công ty đã tiến hành đầu tư tại Hải Phòng.
- Trong danh sách top 500 doanh nghiệp lớn của Việt Nam năm 2012, thành phố chỉ có 15 doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp có vị trí cao nhất cũng chỉ đứng thứ 48. Trong danh sách 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất ViệtNam năm 2012 thành phố có 10 doanh nghiệp. Trong danh sách 200 doanh nghiệp đạt giải thưởng “Sao vàng đất Việt” năm 2013, Hải Phòng chỉ có 03 doanh nghiệp đạt giải. Hải Phòng chỉ có 03/419 doanh nghiệp được người tiêu dùng bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao năm 2012.
2.4. Mức độ hội nhập quốc tế của thành phố còn hạn chế
Theo Báo cáo năng lực hội nhập kinh tế quốc tế cấp địa phương năm 2010, mặc dù Hải Phòng có điểm tổng hợp cao thứ 4 nhưng trong đó có một số điểm của từng trụ cột còn thấp như: văn hóa (đứng thứ 49), đầu tư (đứng thứ 31), thương mại (đứng thứ 20).
Độ mở của nền kinh tế thành phố không bằng độ mở nền kinh tế cả nước. Tốc độ mở rộng thị trường xuất khẩu mới đạt 82 thị trường, trong khi cả nước đã xuất khẩu tới 152 thị trường; tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Hải Phòng năm 2012 chỉ chiếm 2,27% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đứng thứ 3 miền Bắc và thứ 6 cả nước.
Mối liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp của thành phố yếu, doanh nghiệp thành phố chưa tham gia được vào chuỗi sản xuất của các doanh nghiệp FDI cũng như chuỗi giá trị toàn cầu. Dù là khu vực đầu tàu trong xuất khẩu của thành phố nhưng giá trị nhập khẩu của khu vực FDI còn lớn hơn cả giá trị xuất khẩu (thậm chí loại trừ cả nhập khẩu máy móc công nghệ và trang thiết bị của khu vực FDI). Hầu hết nguyên vật liệu các doanh nghiệp FDI đều nhập khẩu nhằm phục vụ sản xuất cho xuất khẩu như phôi thép, hạt nhựa, đồ phụ trợ hàng may mặc, các bộ phận của giày dép,…
Khách du lịch quốc tế đến Hải Phòng còn thấp, năm 2012 chỉ chiếm khoảng 8,3% tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam.
2.5. Phát triển xã hội và bảo vệ môi trường còn nhiều vấn đề phức tạp
- Tốc độ tăng lao động trong giai đoạn vừa qua chỉ đạt khoảng 2%/năm, số lao động không có việc làm hiện chiếm tỷ trọng khoảng 4% trong tổng số lao động; chất lượng lao động còn thấp, hiệu quả sử dụng lao động chưa cao.
- Tỷ lệ hộ nghèo giảm dần qua các năm nhưng tốc độ giảm nghèo chậm lại và vẫn cao hơn nhiều so với các thành phố lớn khác. Tỷ lệ hộ cận nghèo khá cao và đây là những đối tượng dễ bị tổn thương nên nguy cơ xuống dưới ngưỡng nghèo rất cao, kết quả giảm nghèo chưa vững chắc.
- Thu nhập bình quân đầu người còn thấp; bất bình đẳng về phân phối thu nhập, phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư đang có nguy cơ tăng lên.
- Tình trạng ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước, không khí và ứ đọng chất thải đang ở mức báo động, đặc biệt ở các làng nghề; hiện tượng khai thác bừa bãi, sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây suy thoái môi trường và làm mất cân bằng hệ sinh thái vẫn đang diễn ra phổ biến.
PHẦN THỨ HAI
Cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế thành phố đến năm 2020, định hướng đến năm 2025
I. BỐI CẢNH VÀ CÁC NGUỒN LỰC, THÁCH THỨC
1. Bôi cảnh tình hình trong nước và thế giới
Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen rất phức tạp. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng lớn. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày càng sâu rộng. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu đã trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế. Sự phụ thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nước càng trở thành phổ biến. Chủ nghĩa bảo hộ đang có nguy cơ trỗi dậy trở thành rào cản lớn cho thương mại quốc tế. Kinh tế thế giới tuy đã bắt đầu phục hồi nhưng đà tăng trưởng còn chậm, tiềm ẩn nhiều rủi ro và bất định. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thời gian qua đã mở ra cho đất nước những cơ hội phát triển lớn. Tự do hóa thương mại và đầu tư đã giúp mở rộng thị trường xuất khẩu và các luồng vốn đầu tư vào Việt Nam ngày càng phong phú, phân công lao động quốc tế diễn ra thuận lợi hơn và nền kinh tế đã ở vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu.
2. Các nguồn lực và yếu tố thách thức, bất lợi
Hải Phòng có khoảng 125 km chiều dài đường bờ biển và trên 100.000 km2 thềm lục địa, là một trọng điểm trong thực hiện Chiến lược biển của cả nước; nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, trong vùng đồng bằng sông Hồng và trong hai hành lang, một vành đai hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc, có vị trí giao lưu rất thuận lợi với tất cả các tỉnh trong nước và quốc tế; có khu dự trữ sinh quyển thế giới Cát Bà; có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc phục vụ cho giao thông đường thủy và hệ thống sông cung cấp đầu vào sản xuất nước sạch với trữ lượng hơn 21 triệu m3; cùng với Quảng Ninh là khu vực có tiềm năng phát triển điện thủy triều lớn nhất cả nước.
Quy mô kinh tế thành phố đang tăng đáng kể. Năm 2012 GDP đạt 27.815 tỷ đồng. Thành phố là một trong số ít địa phương có điều tiết về ngân sách Trung ương. Thu hút vốn đầu tư phát triển tăng nhanh, ngày càng nhiều doanh nghiệp Hải Phòng niêm yết trên thị trường chứng khoán, trong đó nhiều doanh nghiệp có năng lực sản xuất kinh doanh khá, khẳng định được vị trí, thương hiệu trên thị trường. Trong 5 năm 2011-2015, thành phố dự kiến huy động vốn đầu tư phát triển từ 200 đến 220 nghìn tỷ đồng và khoảng 500 đến 520 nghìn tỷ đồng trong giai đoạn 2016-2020.
Lực lượng lao động của thành phố đã có sự gia tăng đáng kể, nguồn nhân lực thành phố có trình độ học vấn và tay nghề tương đối cao, lực lượng kiều bào người Hải Phòng đông đảo. Hạ tầng giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ được đầu tư đang dần đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố. Hệ thống kết cấu hạ tầng thành phố đã đáp ứng được một phần nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, góp phần bảo đảm tăng trưởng kinh tế nhanh, phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội, giảm nhẹ thiên tai, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống nhân dân, xoá đói, giảm nghèo và phục vụ cho sự phát triển của cả vùng và miền Bắc. Tài nguyên quốc tế ngày càng được mở rộng, thành phố ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới.
Thành phố có khu dự trữ sinh quyển thế giới Cát Bà. Rừng nguyên sinh trong khu dự trữ sinh quyển là trạng thái rừng trên đá vôi khá độc đáo với một số loài động vật quý hiếm. Khoáng sản đá vôi cho sản xuất vật liệu xây dựng là loại khoáng sản quan trọng nhất của Hải Phòng và rất phù hợp cho phát triển công nghiệp sản xuất xi măng quy mô lớn. Vùng biển của Hải Phòng nằm ở vị trí trung tâm vịnh Bắc Bộ, một vị trí khai thác hải sản rất thuận lợi vì tiếp giáp với 3 ngư trường lớn có ý nghĩa kinh tế nhất của Vịnh Bắc Bộ.
 Tuy nhiên, cải cách hành chính chưa đồng bộ, toàn diện, vững chắc. Kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ, kém tính kết nối, chưa đáp ứng yêu cầu sử dụng và hội nhập quốc tế. Nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, chưa sẵn sàng cho hội nhập kinh tế quốc tế. Trình độ khoa học công nghệ còn thấp; tốc độ đổi mới công nghệ ở một số ngành công nghiệp mũi nhọn còn chậm. Kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, chậm phục hồi; nợ công của các nước khu vực châu Âu lan rộng. Đề án tổng thể về tái cấu trúc nền kinh tế cả nước vừa mới được phê duyệt. Hiệu quả sản xuất, kinh doanh của một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước trên địa bàn thành phố chưa cao, năng suất lao động, sức cạnh tranh còn thấp. Chưa thu hút được nhiều các Công ty lớn trên thế giới. Xu hướng tăng giá các loại nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào, đặc biệt là các tài nguyên không tái tạo được. Tình hình an ninh chính trị còn diễn biến phức tạp; Xã hội, môi trường còn nhiều vấn đề khó giải quyết.
II. QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU VỀ ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG THÀNH PHỐ ĐẾN NĂM 2020 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2025
1. Quan điểm
Tăng trưởng cao dựa trên lợi thế vị trí, cơ sở hạ tầng đồng bộ, vượt trội, những ưu đãi đầu tư hợp lý và sự năng động của hệ thống chính trị;
Lấy tăng năng suất và hiệu quả sử dụng nguồn lực làm động lực chính. Lấy khoa học công nghệ làm nền tảng và công nghệ tiến tiến làm chủ đạo trong quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế thành phố; lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho phát triển nhanh, bền vững. Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn và thước đo. Lấy luật pháp và các thông lệ quốc tế Việt Nam đã cam kết và các cơ chế, chính sách làm nền tảng trong quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình kinh tế thành phố. Tận dụng ưu thế của cơ chế thị trường nhằm tăng hiệu quả phân bổ và sử dụng nguồn lực. Hội nhập ngày càng sâu, rộng vào kinh tế thế giới.
Tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng là nhiệm vụ lớn, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải được triển khai đồng bộ ở tất cả các ngành, các cấp trong thời gian dài với những bước đi thích hợp, có trọng tâm, trọng điểm, tránh tăng trưởng bằng mọi giá, tăng trưởng trước khắc phục sau, kết hợp giữa tuần tự với sự biến đổi đột biến.
Tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng phải gắn chặt chẽ với bảo đảm  quốc phòng, an ninh và công tác đối ngoại.
2. Mục tiêu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Xây dựng Hải Phòng trở thành thành phố cảng xanh, văn minh, hiện đại, trung tâm dịch vụ, công nghiệp lớn có sức cạnh tranh cao. Đến năm 2020 hình thành mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, tạo sự tăng trưởng ổn định, nâng cao chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh của thành phố; bảo đảm  nguồn thu vững chắc, tăng thu nội địa; cải thiện rõ rệt các chỉ số phát triển, trong đó chú trọng nâng cao thu nhập bình quân đầu người. Thể hiện được tác động lan tỏa của kinh tế thành phố trong vùng và cả nước, cửa chính ra biển của miền Bắc. Có mối liên kết hiệu quả, bền vững với các tỉnh, thành phố trong nước và khu vực. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh. Xây dựng thành công đô thị sinh thái, đô thị kinh tế. Đạt trình độ cao về phát triển kinh tế - xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao, bảo đảm  môi trường sống an toàn, thân thiện.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Tỷ trọng GDP Hải Phòng trong GDP cả nước đạt khoảng 7,3% vào năm 2020 và khoảng 9% vào năm 2025.
- Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đến năm 2020 từ 13,5 - 14%/năm; GDP bình quân đầu người (giá hiện hành) đạt khoảng 4.900 - 5.000 USD/người vào năm 2020.
- Cơ cấu kinh tế năm 2020 là 60% - 37% - 3% và năm 2025 là 65% - 33% - 2%.
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ theo hướng tăng dần tỷ trọng những phân ngành có giá trị gia tăng cao, có khả năng cạnh tranh nhờ vào lợi thế so sánh của thành phố để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
- Tăng giá trị sản xuất công nghiệp công nghệ cao đạt khoảng 30% tổng giá trị sản xuất công nghiệp vào năm 2015 và 40% vào năm 2020; đưa tỷ lệ giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp đạt 35% vào năm 2015 và đạt 45% vào năm 2020.
- Phấn đấu đến năm 2020 có tên trong danh sách các thành phố có sức cạnh tranh của khu vực. Nâng dần số lượng các doanh nghiệp tạo ra những sản phẩm có thương hiệu, có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
- Tuổi thọ bình quân của người dân thành phố đạt 77,5 tuổi vào năm 2020.
- Hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thành phố theo hướng đồng bộ, cân đối và hiện đại hóa.
III. ĐỊNH HƯỚNG ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU KINH TẾ, ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG ĐẾN NĂM 2020, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2025.
1. Định hướng điều chỉnh cơ cấu kinh tế đến năm 2020
1.1. Điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo ngành, nội bộ ngành:
Định hướng điều chỉnh cơ cấu kinh tế thành phố về dài hạn vẫn là dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Tuy nhiên, chính sách phát triển các ngành kinh tế của thành phố cần nhấn mạnh về công nghiệp trong ngắn và trung hạn để bảo đảm  có một ngành công nghiệp phát triển bền vững hỗ trợ cho phát triển các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao như công nghệ thông tin, ngân hàng-tài chính, khoa học công nghệ. Đối với chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành, thành phố cần tập trung đầu tư và có chính sách khuyến khích đầu tư cho các ngành có lợi thế hơn hẳn so với các địa phương khác ở miền Bắc, đồng thời tạo lập và phát huy có hiệu quả các mối liên kết: liên kết giữa các vùng, giữa Hải Phòng với các địa phương trong vùng, trong liên kết hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt Nam - Trung Quốc; liên kết giữa các ngành, nghề, liên kết giữa thành thị và nông thôn, liên kết đất liền và biển đảo.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tăng nhanh khu vực có năng suất lao động cao và hiệu quả lớn có sức cạnh tranh trên cơ sở hình thành rõ nét những ngành, lĩnh vực động lực, mũi nhọn. Tăng tỷ trọng phân ngành có năng suất, giá trị gia tăng, lợi thế cạnh tranh và hàm lượng khoa học công nghệ cao, sử dụng công nghệ sạch, thân thiện với môi trường, tăng tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm, chuyển từ gia công, lắp ráp sang chế tạo và chế tác, ưu tiên phát triển các ngành có các sản phẩm có khả năng tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu và giảm dần tỷ trọng những ngành gia công, sơ chế có giá trị gia tăng thấp và các ngành khai thác tài nguyên.
Tập trung vào các ngành dịch vụ như: dịch vụ cảng, vận tải biển, logistics, dịch vụ hàng hải, hàng không, nghiên cứu thiết kế, phát minh - sáng chế, tài chính - ngân hàng, thương mại, giáo dục đào tạo, chữa bệnh chất lượng cao, du lịch, khoa học công nghệ, công nghệ thông tin, thương mại điện tử, hội chợ triển lãm...
Phát triển sản xuất nông nghiệp thành phố theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái với các sản phẩm sạch, thân thiện với môi trường, có năng suất cao và giá trị lớn; sản xuất hàng hoá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, gắn sản xuất với chế biến và thị trường tiêu thụ sản phẩm, xuất khẩu. Tăng tỷ trọng chăn nuôi, cây trồng có giá trị kinh tế cao, dịch vụ nông nghiệp, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp với du lịch sinh thái và phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch thân thiện với môi trường; chuyển dịch cơ cấu trồng trọt từ sản xuất lương thực là chính sang rau đậu, quả thực phẩm, hoa và cây cảnh. Phát triển chăn nuôi theo chiều sâu, theo hướng sản xuất hàng hóa với hình thức chăn nuôi trang trại, gia trại quy mô vừa và lớn. Phát triển các lĩnh vực kinh tế thuỷ sản có trọng tâm, ưu tiên các lĩnh vực nhiều lợi thế để Hải Phòng thực sự trở thành trung tâm sản xuất giống, thức ăn, khoa học công nghệ, chế biến, xuất khẩu thuỷ sản và dịch vụ hậu cần nghề cá của vùng duyên hải Bắc Bộ.
1.2. Điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế
Giảm tỷ trọng thành phần kinh tế nhà nước, duy trì sở hữu nhà nước trong lĩnh vực quan trọng, ở các doanh nghiệp quy mô lớn có vai trò nòng cốt trong hội nhập kinh tế quốc tế. Củng cố, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả của kinh tế tập thể. Phát triển mạnh và đa dạng khu vực doanh nghiệp tư nhân, khuyến khích hình thành thêm doanh nghiệp quy mô lớn, năng lực cạnh tranh cao, hoạt động có hiệu quả. Thu hút thêm nhiều tập đoàn lớn trên thế giới có tiềm lực về vốn, thị trường và công nghệ, ưu tiên đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ sử dụng công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, có thế mạnh trong cạnh tranh quốc tế và sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên, thân thiện môi trường.
1.3. Điều chỉnh cơ cấu đầu tư
Duy trì tỷ trọng đầu tư công hợp lý trong tổng đầu tư toàn xã hội, đi đôi với tăng cường huy động vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác và nâng cao hiệu quả đầu tư.
Đối với đầu tư công: tập trung đầu tư cho hệ thống hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, những ngành có tính đột phá, làm động lực thúc đẩy phát triển các ngành khác, những ngành, lĩnh vực mà tư nhân không đầu tư hoặc không thể đầu tư; các chương trình, dự án bảo đảm  an sinh xã hội.
Nâng dần tỷ lệ đầu tư toàn xã hội vào các ngành, lĩnh vực có trình độ kỹ thuật cao, hiện đại, sử dụng ít nhiên liệu, thân thiện với môi trường và có giá trị gia tăng lớn. Cân bằng hơn giữa đầu tư cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa, giữa công nghệ cao và công nghệ sử dụng nhiều lao động, giữa sản xuất trực tiếp và gia công.
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng khoa học- công nghệ hiện đại, công nghệ sinh học, cơ giới hoá, dịch vụ, tin học hoá trong nông nghiệp; tập trung đầu tư xây dựng các khu nông nghiệp sinh thái và công nghệ cao, đổi mới công nghệ sau thu hoạch, bảo quản và chế biến nông-lâm-thuỷ sản.
1.4 Tái cơ cấu doanh nghiệp
Tiếp tục củng cố, đổi mới và nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 (khóa 11) về Đề án “Tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”; các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: số 929/QĐ-TTg ngày 17-7-2012 về phê duyệt Đề án “ Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011-2015”, số 2108/QĐ-TTg ngày 18-11-2010 về phê duyệt Đề án tái cơ cấu Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam; số 276/QĐ-TTg ngày 4-2-2013 phê duyệt Đề án Tái cơ cấu Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam giai đoạn 2012-2015... Đổi mới, phát triển và tiến tới áp dụng đầy đủ khung quản trị hiện đại theo thông lệ tốt của kinh tế thị trường đối với các doanh nghiệp thuộc các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước.
Hoàn thành toàn diện công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước thành phố Hải Phòng theo Công văn số 54/TTg-ĐMDN ngày 11-1-2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thuộc UBND thành phố Hải Phòng giai đoạn 2011-2015.
Tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu các doanh nghiệp tư nhân trên tất cả các mặt: ngành nghề kinh doanh, cơ cấu sản phẩm, công nghệ sản xuất, thị trường, tổ chức bộ máy, mô hình hoạt động, quản lý, tài chính, kế hoạch sản xuất, kinh doanh, đầu tư phát triển, nguồn nhân lực...; nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp tư nhân; khuyến khích hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân có tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Coi trọng phát triển doanh nghiệp tư nhân trong các ngành đòi hỏi cao về chất lượng lao động như thông tin truyền thông, dịch vụ chuyên môn và khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, dịch vụ hành chính và hỗ trợ kinh doanh, kinh doanh bất động sản, sản xuất công nghiệp hỗ trợ.
Củng cố, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả của kinh tế tập thể; tiếp tục đặt trọng tâm là củng cố các hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp, nông thôn, gắn với phát triển làng nghề.
Chú trọng thu hút các tập đoàn lớn nước ngoài có tiềm lực về vốn, thị trường và công nghệ, ưu tiên đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ sử dụng công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, có thế mạnh trong cạnh tranh quốc tế và sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên, thân thiện môi trường.
2. Định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế đến năm 2020
2.1 Phát huy tối đa lợi thế vị trí, hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, vượt trội, nhất là cảng cửa ngõ quốc tế, cảng hàng không quốc tế, các ưu đãi đầu tư hợp lý để đẩy mạnh thu hút đầu tư, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và điều chỉnh cơ cấu kinh tế thành phố theo hướng hiện đại, hiệu quả. Tập trung phát triển các ngành như dịch vụ vận tải biển, logistics; vận tải hàng không, logistics hàng không; các ngành công nghiệp công nghệ cao tham gia vào chuỗi sản xuất và giá trị toàn cầu; dịch vụ cao cấp.
2.2 Chuyển từ tăng trưởng chiều rộng hiện nay sang tăng trưởng kết hợp hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu trong giai đoạn 2011-2015 và theo chiều sâu trong giai đoạn 2016-2020; tăng trưởng dựa trên những ngành tham gia mạng sản xuất toàn cầu, chế biến sâu, có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường. Nâng dần tỷ trọng đóng góp của yếu tố TFP trong tốc độ tăng trưởng GDP lên khoảng 40% vào năm 2020 và 45% vào năm 2025 và đóng góp của năng suất lao động xã hội, tiến bộ khoa học công nghệ trong TFP. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, hệ số ICOR đạt khoảng 4 ÷ 4,5 vào năm 2020, khoảng 3,5 ÷ 4 vào năm 2025. Phát triển sản xuất công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ đón đầu làn sóng đầu tư từ Nhật Bản.
2.3 Tăng trưởng kinh tế dựa trên sự phát triển của khu kinh tế ven biển hiện đại, khu công nghiệp chuyên sâu, tập trung mọi nguồn lực để xây dựng và phát triển thành công Khu kinh tế Đình Vũ- Cát Hải.
2.4 Tiếp tục phát triển kinh tế theo hướng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và định hướng xuất khẩu, kết nối có hiệu quả với thị trường thế giới, đồng thời coi trọng thị trường trong nước, tăng độ mở của nền kinh tế thành phố; thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu; nâng cao hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu; đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 7 tỷ USD vào năm 2020, khoảng hơn 11 tỷ vào năm 2025.
2.5 Tăng trưởng dựa trên việc giảm dần đóng góp của khu vực nhà nước, tăng đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP lên khoảng 20% vào năm 2020 và 22% vào năm 2025.
2.6 Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường, giảm dần bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, tăng số lượng lao động được giải quyết việc làm mỗi năm, giảm tỷ lệ hộ nghèo.
3. Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng giai đoạn 2021- 2025
Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn này vẫn là dịch vụ - công nghiệp và xây dựng - nông lâm thủy sản. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển các dịch vụ hàng không, logistics, du lịch, hàng hải, tài chính ngân hàng, thương mại. Tập trung phát triển các ngành: cơ khí phục vụ sửa chữa và sản xuất một số phụ tùng thiết bị, máy móc chuyên dụng phục vụ các ngành khác; sản xuất linh phụ kiện và thiết bị điện tử trong ngành hàng không, vận tải thuỷ, bộ, khai thác dầu khí; chế tạo rô-bốt, thiết bị chuyên dụng thông minh; công nghiệp phần mềm; sản xuất các kim loại cao cấp, các hợp kim đặc chủng với nhiều đặc tính nổi trội; hoá dược, hoá mỹ phẩm, nhựa công nghiệp, hoá dầu, sơn… Nhóm ngành nông lâm thủy sản sẽ chuyển dịch theo hướng chủ yếu bảo đảm  an ninh lương thực, phát triển nông nghiệp sinh thái, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản theo hướng tập trung, đẩy mạnh khai thác xa bờ, đa dạng hóa sản phẩm chế biến.
Mô hình tăng trưởng kinh tế sẽ chuyển sang chủ yếu phát triển theo chiều sâu, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, đóng góp của TFP tịnh tiến tới các nước phát triển. Tiếp tục tăng trưởng theo hướng hội nhập quốc tế, tăng trưởng xanh. Phát triển kinh tế nhảy vọt, toàn diện và bền vững đi đôi với bảo đảm  an sinh xã hội.
IV. CÁC NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP NHẰM ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU KINH TẾ, ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ĐẾN NĂM  2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2025
1. Các nhiệm vụ
1.1 Đến năm 2015
Khẩn trương triển khai Kết luận số 72-KL/TƯ ngày 10-10-2013 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 32-NQ/TƯ ngày 5- 8-2003 của Bộ Chính trị khóa 9 “Về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Khởi động quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, trong đó tập trung điều chỉnh cơ cấu ngành và đẩy nhanh quá trình nội địa hóa theo 5 giai đoạn (linh kiện cụm nguyên chiếc - CKD; nội địa hóa thông qua hình thức sản xuất tại chỗ; xuất hiện các nhà cung cấp linh kiện chủ chốt; tập trung các ngành công nghiệp phụ trợ; nghiên cứu, phát triển và xuất khẩu); đẩy mạnh thu hút đầu tư FDI, trong đó chú trọng thu hút dòng đầu tư từ Nhật Bản.
Xây dựng các tuyến đường cao tốc, cơ bản hoàn thành Dự án phát triển giao thông đô thị sử dụng vốn vay ODA, hai bến khởi động của cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng, cảng hàng không quốc tế Cát Bi, các hạng mục hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội chủ yếu của Khu kinh tế Đình Vũ – Cát Hải và một số khu, cụm công nghiệp quan trọng. Tiến hành xây dựng và nâng cấp một số đại học, bệnh viện. Quan tâm đầu tư nâng cao năng lực khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
1.2 Thời kỳ 5 năm tiếp theo 2016-2020
Tiếp tục thực hiện quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, trong đó tập trung điều chỉnh cơ cấu xuất nhập khẩu, cơ cấu công nghệ sản xuất.
Hoàn chỉnh các tuyến đường cao tốc, hạ tầng cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng, nâng cấp, mở rộng các tuyến đường quốc lộ, tuyến đường sắt Hà Nội – Hải Phòng. Hoàn thiện hệ thống cấp điện, hệ thống nước, hệ thống xử lý rác thải. Nâng cấp một đến hai trường đại học, một bệnh viện lên cấp vùng.
1.3 Thời kỳ 5 năm 2021-2025
Thực hiện phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng đến năm 2025 đã được xác định. Tiếp tục hoàn thiện hạ tầng cảng Lạch Huyện, các công trình đầu mối giao thông trên địa bàn. Xây dựng và phát triển năng lực khoa học công nghệ thành phố đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
2. Các giải pháp
2.1 Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân đối với việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng
Đẩy mạnh tuyên truyền về Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 11 và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 14, trong đó nhấn mạnh đến nội dung điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ thành phố về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng.
Tổ chức các hoạt động tuyên truyền sâu rộng về điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, gắn với việc thực hiện các Nghị quyết, chương trình của Đảng, đặc biệt là Kết luận số 72-KL/TƯ ngày 10-10-2013 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 32-NQ/TƯ ngày 5 - 8 -2003 của Bộ Chính trị khóa 9 “Về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Thường xuyên cập nhật, đưa tin về mô hình kinh tế mới, các sáng kiến, cải tiến, kinh nghiệm hay về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
2.2 Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; nâng cao năng lực xây dựng, thực thi cơ chế, chính sách, hiệu quả quản lý nhà nước. Nâng cao hiệu quả thu, chi ngân sách; quản lý thu đúng, thu đủ, công khai, minh bạch, chống thất thu.
Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 8-11-2011 của Chính phủ về ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 và Nghị quyết số 01-NQ/TU ngày 15-11-2011 của Ban Thường vụ Thành ủy về đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước thành phố giai đoạn 2011 - 2015. Phấn đấu Hải Phòng luôn là một trong những địa phương trong tốp  đầu thực hiện cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011- 2020.
Đổi mới, chuẩn hóa quy trình quản lý thu - chi ngân sách, nâng cao hiệu quả thu, chi ngân sách, chống thất thu ngân sách; quản lý thu đúng, thu đủ, công khai, minh bạch.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND và các quy định pháp luật có liên quan đến công tác xây dựng, thẩm định và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn thành phố. Vận dụng linh hoạt các cơ chế, chính sách, quy định của Trung ương; tăng cường cụ thể hóa thành các cơ chế, chính sách của thành phố, địa phương. Ban hành các chủ trương, cơ chế chính sách thuận lợi, hỗ trợ doanh nghiệp, thu hút đầu tư, khoa học công nghệ, nhân tài, tạo ra những ngành nghề mới, ưu tiên những sản phẩm, công nghệ đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu kinh tế theo chiều sâu; loại bỏ các thủ tục, văn bản chỉ đạo không phù hợp với cơ chế thị trường, với hội  nhập kinh tế quốc tế; tạo cơ chế khuyến khích đầu tư để mở rộng và tăng thêm cơ hội đầu tư và kinh doanh cho khu vực kinh tế tư nhân, nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh.
Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia vào quá trình xây dựng chính sách. Tham vấn ý kiến doanh nghiệp đối với những vấn đề, nội dung liên quan đến sự phát triển của doanh nghiệp. Tạo dựng cơ chế thông tin hai chiều thường xuyên, tăng cường các diễn đàn trao đổi giữa chính quyền với doanh nghiệp; xây dựng và đổi mới hoạt động của cổng giao tiếp điện tử thành phố thành phương tiện trao đổi thông tin hiệu quả giữa thành phố với người dân và doanh nghiệp nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trực tiếp phản ánh, kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước, người có thẩm quyền về những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp. Lãnh đạo thành phố, các sở, ngành liên quan tổ chức thường xuyên đối thoại trực tiếp, gặp gỡ doanh nghiệp để kịp thời nắm bắt được và giải quyết những vấn đề bức xúc của doanh nghiệp.
2.3 Nâng cao chất lượng các quy hoạch và hiệu lực quản lý nhà nước đối với các quy hoạch. Điều chỉnh cơ cấu, tập trung đầu tư theo quy hoạch và nâng cao hiệu quả đầu tư. Đổi mới căn bản các nguồn lực phát triển, tăng cường sử dụng các hình thức đầu tư BT, BOT, PPP
Tích cực phối hợp với các cơ quan Trung ương đề xuất, giải quyết các kiến nghị của thành phố về cơ chế tài chính, ngân sách, đầu tư nêu tại Kết luận số 72-KL/TƯ của Bộ Chính trị.
Khẩn trương xây dựng, rà soát, điều chỉnh, bổ sung các loại quy hoạch, bảo đảm  sự thống nhất, liên kết giữa các quy hoạch và phù hợp, thúc đẩy tiến trình tái cơ cấu, đổi mới mô hình tăng trưởng theo chiều sâu. Tạo điều kiện cho người dân tham gia xây dựng và phản biện quy hoạch. Đẩy mạnh công bố công khai các quy hoạch đã được phê duyệt theo quy định; cụ thể hóa các nội dung của quy hoạch thành các mục tiêu, chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm và 5 năm của thành phố, các ngành, lĩnh vực và các quận, huyện; thường xuyên giám sát, kiểm tra, thanh tra thực hiện quy hoạch và xử lý nghiêm các vi phạm quy hoạch.
Tiếp tục kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ và các Bộ, ngành nghiên cứu xây dựng cơ chế đầu tư đặc thù đối với các địa phương trọng điểm như Hải Phòng để tạo sự phát triển bứt phá làm đầu tàu, hỗ trợ các địa phương khác trong vùng cùng phát triển. Cho phép ngân sách thành phố được hưởng một tỷ lệ nhất định trong số thu Hải quan hàng năm để đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng.
Tăng cường đấu giá quyền sử dụng đất; thực hiện mở rộng hai bên hành lang công trình các tuyến đường lớn để tạo quỹ đất đấu giá. Quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn thu từ đất, đấu thầu dự án, đấu giá các tài sản công sử dụng không hiệu quả tạo nguồn thực hiện các dự án lớn, trọng điểm của thành phố; Bổ sung đủ nguồn vốn cho Quỹ phát triển đất phục vụ công tác giải phóng mặt bằng các dự án đầu tư trên địa bàn. Nghiên cứu phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, trong đó đề xuất Trung ương cho phép phát hành vượt hạn mức theo quy định hiện hành.
Thực hiện nhất quán, hiệu quả kế hoạch đầu tư trung hạn; trong đó tập trung vốn đầu tư từ ngân sách cho các dự án, công trình trọng điểm được Thành ủy, HĐND thành phố xác định trong từng thời kỳ góp phần từng bước khắc phục hiệu quả tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán, thiếu đồng bộ, kém hiệu quả. Tăng cường công tác quản lý, thanh tra, giám sát, phản biện và kiểm tra, tố giác, xử lý kịp thời và nghiêm khắc các vi phạm đầu tư công.
Xây dựng và công bố danh mục dự án, công trình đầu tư cụ thể để huy động các nguồn lực trong xã hội; khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân tham gia đấu thầu thực hiện các dự án có vốn ngân sách nhà nước và kể cả vốn ODA. Xây dựng bộ tiêu thức phù hợp và chuẩn hóa để tạo căn cứ lựa chọn và thông qua các dự án đầu tư công theo lĩnh vực và yêu cầu đầu tư, mục tiêu kinh tế - xã hội, môi trường. Kiên quyết loại bỏ những dự án đầu tư không đạt các tiêu chí về hiệu quả kinh tế - xã hội và chưa bảo đảm những yêu cầu về thủ tục để tập trung vốn cho các dự án bảo đảm hoàn thành trong hạn định và có hiệu quả cao.
Đẩy mạnh việc xã hội hoá trong đầu tư các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hoá, thể dục thể thao... Khuyến khích áp dụng hình thức đầu tư theo các hình thức: BOT, BTO, BT, PPP; tạo cơ chế hấp dẫn cho khu vực tư nhân tham gia đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trước mắt là ở quy mô nhỏ và vừa. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài có chọn lọc hướng vào các ngành trọng tâm ưu tiên phát triển của thành phố, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành có lợi thế cạnh tranh dựa vào thâm dụng vốn với hàm lượng khoa học, công nghệ cao, tiết kiệm năng lượng và tài nguyên thông qua việc tạo môi trường thuận lợi, ban hành các cơ chế thông thoáng, linh hoạt về giá thuê đất, chính sách sử dụng đất, giải phóng mặt bằng, cung cấp dịch vụ hạ tầng và cải cách thủ tục hành chính. Tích cực thu hút nguồn vốn FDI từ Nhật Bản, đi đôi với việc vận động ODA của Nhật Bản để hỗ trợ cho các dự án FDI.
Nâng cao chất lượng xây dựng các dự án có tính khả thi cao làm căn cứ thu hút nguồn vốn ODA từ các tổ chức quốc tế theo các định hướng ưu tiên của nhà nước như cải thiện cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo, nước sạch nông thôn, môi trường, y tế, giáo dục...Đẩy nhanh tiến độ giải ngân các nguồn vốn nước ngoài đã cam kết.
2.4 Tạo chuyển biến cơ bản về đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế. Tăng cường đầu tư vốn con người, phát triển nguồn nhân lực
Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 6 (khóa 11) về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 8 (khóa 11) về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Đổi mới cơ cấu ngành, nghề đào tạo cấp đại học, đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố.
Xây dựng, củng cố mô hình xã hội học tập; tạo môi trường học tập cả đời, phát triển mô hình học tập cộng đồng, thư viện phường/xã, dòng tộc. Xây dựng cơ chế chính sách cụ thể để thu hút nhân tài, nhân lực chất lượng cao. Nghiên cứu thực hiện cơ chế thuê, hợp tác, tư vấn đối với chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực công nghệ cao phục vụ cho phát triển thành phố. Đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, đánh giá kết quả và thành tích lao động, chế độ trả lương, thưởng, đề bạt, nâng cấp và kỷ luật, sa thải lao động. Gắn kết chặt chẽ 4 bên trong đào tạo nguồn nhân lực. Tăng cường đào tạo theo nhu cầu thực tế của thị trường và yêu cầu, địa chỉ cụ thể của người lao động. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và các tổ chức đào tạo trên địa bàn thành phố thực hiện hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau trong đào tạo, nâng cao kỹ năng cho lao động trong doanh nghiệp. Tiếp tục tăng cường hợp tác đào tạo, tăng khả năng học tập, tiếp thu trình độ khoa học, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của quốc tế. Mở rộng các chương trình đào tạo tiên tiến.
Tạo cơ chế đồng bộ khuyến khích đầu tư cho các hoạt động R&D, tăng cường đầu tư công nghệ tiên tiến, đổi mới dây chuyền công nghệ, áp dụng công nghệ tự động hóa. Thúc đẩy các hoạt động sáng tạo, đổi mới, nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, cải tiến quy trình sản xuất, công nghệ quản lý. Gắn kết chặt chẽ hoạt động khoa học và công nghệ với sản xuất, đời sống; phục vụ phát triển kinh tế-xã hội. Tăng cường đầu tư cho nhân lực khoa học và công nghệ. Củng cố, sắp xếp lại và phát triển các cơ sở hoạt động khoa học và công nghệ.
2.5 Giữ vững tăng trưởng ổn định kinh tế. Nâng cao thu nhập bình quân đầu người, nâng cao đời sống vật chất của người dân thành phố, môi trường sống an toàn, môi trường sinh thái tốt, thực hiện được mục tiêu an sinh xã hội
Thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TƯ ngày 1-6-2012 của Ban chấp hành Trung ương (khóa 11) về một số vấn đề chính sách xã hội trong giai đoạn 2012-2020; Chương trình hành động của Ban chấp hành Đảng bộ thành phố thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TƯ; Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12-4-2012.
Sử dụng các nguồn lực của thành phố để bảo đảm  đời sống người dân. Thanh tra, giám sát nghiêm các quy định pháp luật về lãi suất tín dụng, xây dựng hệ thống thông tin kinh tế chính xác, đầy đủ và minh bạch, giúp xây dựng chính sách đối phó kịp thời và có chất lượng đối với những diễn biến kinh tế bất thường. Khai thác nguồn thu từ đất, từ tài nguyên thiên nhiên và các hoạt động kinh tế khác nhằm nâng cao thu nhập bình quân đầu người, cải thiện chỉ số phát triển con người (HDI), nâng cao đời sống vật chất của người dân thành phố, môi trường sống an toàn, môi trường sinh thái tốt, thực hiện tốt các mục tiêu an sinh xã hội.
Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường. Thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững; từng bước phát triển "năng lượng sạch", "sản xuất sạch", "tiêu dùng sạch". Khai thác, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm cân bằng sinh thái ở mức cao, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học tại các khu vực Cát Bà, vùng ven biển, các sông.
Tích cực triển khai, thực hiện có hiệu quả chiến lược bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát bảo vệ môi trường; kiểm soát các nguồn thải có nguy cơ cao gây ô nhiễm hoặc sự cố môi trường. Chủ động các giải pháp đối phó với tình trạng nước biển dâng trong quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu, bảo vệ môi trường sinh thái, hạn chế các ảnh hưởng xấu của quá trình toàn cầu hóa tác động đến môi trường thành phố, bảo đảm  phát triển bền vững thành phố Hải Phòng.
2.6 Hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, nhất là hạ tầng giao thông, đô thị, hạ tầng cung cấp điện, hạ tầng thuỷ lợi và ứng phó với biến đổi khí hậu. Coi trọng phát triển tính vượt trội của hệ thống kết cấu hạ tầng của Hải Phòng để phát huy và khai thác tốt tài nguyên vị thế
Tích cực phối hợp với các cơ quan Trung ương đề xuất, giải quyết các kiến nghị của thành phố về kết cấu hạ tầng nêu tại Kết luận số 72-KL/TƯ. Điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng...
Thực hiện Chương trình hành động số 17-CTr/TU ngày 24-8-2012 của Ban chấp hành Đảng bộ thành phố thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TƯ Hội nghị lần thứ 4 (khóa 11) về “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”; Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 3-1-2012 của Ban chấp hành Đảng bộ thành phố (khóa 14) về phát triển và quản lý đô thị Hải Phòng đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050; Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 16-7-2012 của Ban chấp hành Đảng bộ thành phố khóa 14 về xây dựng nông thôn mới Hải Phòng đến năm 2015, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 20-NQ/TU ngày 28-5-2008 của Ban Thường vụ Thành ủy về nhiệm vụ và giải pháp đẩy mạnh công tác quản lý, phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn thành phố đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 26-3-2012 của Ban Thường vụ Thành ủy về phát triển thương mại Hải Phòng đến năm 2015, định hướng đến năm 2020.
Tập trung huy động mọi nguồn lực để đầu tư giải quyết cơ bản những tắc nghẽn, quá tải, bức xúc và nhanh chóng từng bước hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thành phố theo hướng đồng bộ, cân đối và hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.
2.7 Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, coi trọng vai trò chiến lược của nông nghiệp
Xác lập danh mục các ngành nghề và công nghệ được ưu tiên trong từng thời kỳ.
a. Đối với ngành dịch vụ:
Khuyến khích phát triển các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao mà Hải Phòng có lợi thế như: dịch vụ du lịch, hàng hải, hàng không, tài chính, ngân hàng, logistics...
Đẩy nhanh tốc độ phát triển và hiện đại hoá đội tàu biển, nâng cao năng lực vận tải và sức cạnh tranh, giữ vững vai trò là trung tâm hàng đầu của cả nước và đạt vị trí cao trong khu vực. Xây dựng thêm các trung tâm phân phối nhằm phục vụ thị trường bán lẻ; Hình thành các đầu mối vận tải. Ứng dụng công nghệ thông tin kỹ thuật số trong các dịch vụ logistics theo hướng đồng bộ, hiện đại tiến tới phát triển thương mại điện tử và logistics điện tử (e-logistics). Khuyến khích và tạo điều kiện cho các hãng vận tải biển lớn, doanh nghiệp logistics có thương hiệu nước ngoài thiết lập trụ sở, chi nhánh tại thành phố. Tạo điều kiện thuận lợi để các ngân hàng, công ty tài chính lớn đầu tư và mở chi nhánh hoạt động tại Hải Phòng.
Xây dựng chiến lược xuất khẩu trên cơ sở phát huy tối đa các lợi thế, năng lực của các ngành sản xuất chủ lực, các hoạt động xúc tiến và mở rộng thị trường xuất khẩu. Xây dựng cơ chế ưu đãi, hỗ trợ khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất hàng hóa xuất khẩu và thay thế nhập khẩu; đầu tư ứng dụng công nghệ hiện đại; đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu; đầu tư phát triển các hoạt động xuất khẩu dịch vụ, xuất khẩu tại chỗ.
b. Đối với ngành công nghiệp:
Xây dựng kế hoạch thực hiện Quyết định số 347/QĐ-TTg ngày 22-2-2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao thuộc Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao.
Xây dựng chiến lược cạnh tranh tổng thể cân bằng giữa định hướng xuất khẩu và phát triển thị trường nội địa. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ sản xuất theo hướng tiên tiến, hiện đại, sử dụng năng lượng tiết kiệm, thân thiện với môi trường. Thực hiện triệt để các tiêu chí, danh mục các dự án công nghiệp khuyến khích đầu tư, không chấp thuận đầu tư trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn 2010 – 2015, định hướng đến năm 2020 trong phê duyệt, chấp thuận các dự án mới; bổ sung danh mục không khuyến khích đầu tư các dự án sử dụng nhiều tài nguyên, năng lượng, công nghệ thấp. Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi thu hút đầu tư mới vào các nhà máy sản xuất sản phẩm công nghiệp công nghệ cao thuộc lĩnh vực công nghệ khuyến khích phát triển; lựa chọn phát triển công nghiệp hỗ trợ đối với một số ngành theo hình thức xây dựng một mạng lưới sản xuất dựa trên việc chuyên môn hoá, liên kết chuỗi.
Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi thu hút đầu tư mới vào các nhà máy sản xuất sản phẩm công nghiệp công nghệ cao thuộc lĩnh vực công nghệ khuyến khích phát triển theo Quyết định số 2457/QĐ-TTg ngày 31-12-2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao. Căn cứ vào Quyết định 12/2011/QĐ-TTg ngày 24-2-2011 của Thủ tướng Chính phủ để lựa chọn phát triển công nghiệp hỗ trợ đối với một số ngành theo hình thức xây dựng một mạng lưới sản xuất dựa trên việc chuyên môn hoá, liên kết chuỗi.
c.Đối với phát triển nông lâm thủy sản:
- Tăng hợp lý tỷ trọng vốn đầu tư của ngân sách nhà nước phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; phát triển dịch vụ khuyến nông, đào tạo phát triển sinh kế, nâng cao chất lượng sống của nhân dân và cộng đồng. Ưu tiên đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông sản theo hướng hiện đại, chế biến tinh, chế biến sâu; giảm dần và tiến tới hạn chế xuất khẩu nông sản thô.
- Phát triển và đa dạng hóa các hình thức cung cấp dịch vụ khuyến nông giúp nông dân thay đổi và nâng cao chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm thất thoát sau thu hoạch, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm. Hỗ trợ nông dân kết nối, tiếp cận các dịch vụ nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, kết nối với các doanh nghiệp chế biến, hệ thống tiêu thụ sản phẩm, từng bước hình thành mạng sản xuất và chuỗi cung ứng kết nối sản xuất, chế biến, phân phối và bán sản phẩm; kết nối công nghiệp phục vụ nông nghiệp với sản xuất nông nghiệp, kết nối “bốn nhà” trong mạng sản xuất một số sản phẩm nông nghiệp chủ yếu.
- Tiếp tục ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn. Khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do lối sản xuất thủ công truyền thống, công nghệ thấp ở các làng nghề; xử lý có hiệu quả tình trạng ô nhiễm môi trường từ rác thải, chất thải.
- Xây dựng cơ chế, chính sách, mô hình khuyến khích việc đẩy mạnh quá trình tích tụ ruộng đất, mở rộng sản xuất, tăng cường cơ giới hóa và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật nâng cao năng suất nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn. Chú trọng công nghệ bảo quản, chế biến sau thu hoạch, xây dựng và phát triển cụm liên hoàn kết nối sản xuất, chế biến, phân phối và tiêu thụ nông sản gắn sản xuất với chế biến và thị trường.
- Áp dụng mô hình nuôi tiên tiến thủy, hải sản có giá trị kinh tế cao. Chuyển đổi hợp lý cơ cấu nghề nghiệp khai thác xa bờ, khai thác có hiệu quả các ngư trường trọng điểm. Đa dạng cơ cấu sản phẩm thuỷ sản chế biến, sản phẩm thuỷ sản chủ lực đặc trưng của Hải Phòng, có giá trị và sức cạnh tranh cao; chủ động nguồn nguyên liệu cho các cơ sở chế biến. Triển khai mô hình sản xuất giống cá biển, giống các loại hải sản ở quy mô nhỏ phù hợp với trình độ và đầu tư của nhân dân.
- Khuyến khích phát triển hệ thống cung cấp các dịch vụ nông nghiệp chất lượng cao và hiện đại hóa ở cả dịch vụ đầu vào (vật tư, giống, khuyến nông...) và dịch vụ đầu ra (vận chuyển, lưu kho, kiểm định chất lượng...)
2.8 Khai thác, sử dụng tài nguyên theo mục tiêu bền vững, thân thiện môi trường, phát triển năng lượng mới, năng lượng tái tạo; quản lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên đất, khoáng sản và nước ngọt
Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 6 (khóa 11) về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai. Đẩy mạnh thực hiện Chiến lược biển. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng Quy hoạch không gian biển thành phố Hải Phòng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Khai thác, sử dụng có hiệu quả các tài nguyên theo mục tiêu bền vững, thân thiện môi trường, bảo vệ, giữ gìn các tài nguyên không tái tạo như tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước… Đổi mới phương thức sử dụng tài nguyên, bảo đảm  yêu cầu bền vững: sử dụng các năng lượng tái tạo, năng lượng mới, thực hiện 3R (Reduce - Giảm thiểu, Reuse - Tái sử dụng, Recycle - Tái chế).
2.9 Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động số 19-CTr/TU ngày 7-7-2008 của Ban Thường vụ Thành ủy thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TƯ Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa 10 về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Thông báo kết luận số 39-TB/TU ngày 5-10-2011; Nghị quyết số 17-NQ/TU ngày 20-3-2008 của Ban Thường vụ Thành ủy (Khóa 13) về chủ trương, giải pháp phát triển các loại thị trường vốn, lao động, khoa học và công nghệ thành phố đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Thông báo kết luận số 40-TB/TU ngày 5-10-2011.
Tạo điều kiện thuận lợi, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp nhà nước do Trung ương quản lý đóng trên địa bàn. Phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp nhà nước Trung ương đóng trên địa bàn trong quá trình cổ phần hóa. Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của thành phố theo đúng lộ trình, giảm vốn nhà nước tại các doanh nghiệp, tăng mức độ tham gia cổ phần của bên ngoài, đa dạng hóa sở hữu.
Thực hiện đầy đủ và triệt để Quyết định số 704/QĐ-TTg ngày 11-6-2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Đổi mới quản trị doanh nghiệp theo thông lệ kinh tế thị trường. Từng bước đổi mới và chuyển đổi mô hình phát triển doanh nghiệp dựa trên các trụ cột gồm: thị trường và sản phẩm mục tiêu, khoa học công nghệ, nhân lực, vốn và đất đai. Thực hiện các chương trình quốc gia về phát triển, nâng cao chất lượng các doanh nghiệp dân doanh.
2.10 Tăng cường hợp tác vùng, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế
Triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại. Chủ động và tích cực hội nhập, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao vị thế của thành phố. Triển khai có hiệu quả công tác tuyên truyền, thông tin đối ngoại, quảng bá hình ảnh thành phố. Gắn kết chặt chẽ hoạt động đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; củng cố, mở rộng quan hệ hợp tác lâu dài, có chiều sâu với các đối tác quan trọng; tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với các tổ chức và nhân dân các nước trên thế giới. Tích cực tham gia Hệ thống hiệp hội các thành phố lớn trên thế giới, Mạng lưới các thành phố lớn châu Á thế kỷ 21 và khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Tích cực và chủ động phối hợp, hợp tác với các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, các địa phương trong và ngoài nước thuộc chương trình hợp tác hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt Nam - Trung Quốc. Tăng cường công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài; nâng cao hiệu quả sử dụng và quản lý nguồn viện trợ phi chính phủ nước ngoài.
2.11 Tăng cường sức mạnh nền quốc phòng toàn dân, khu vực phòng thủ; chú trọng giáo dục, đào tạo nghề cho quân nhân xuất ngũ
- Đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, xây dựng Hải Phòng trở thành “pháo đài bất khả xâm phạm” về quốc phòng an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ ngày càng vững chắc, giữ vững chế độ xã hội chủ nghĩa, chủ quyền biển đảo và an ninh quốc gia, bảo vệ Đảng, nhà nước và nhân dân. Đồng thời khai thác sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng và nguồn lực của thành phố, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế xã hội gắn với củng cố quốc phòng - an ninh.
- Tổ chức bồi dưỡng, giáo dục quốc phòng – an ninh cho toàn dân, tập trung bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn dân đối với nhiệm vụ quốc phòng – an ninh, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chăm lo xây dựng “thế trận lòng dân”, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Thường xuyên xây dựng, nâng cao chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang thành phố để thực sự đóng vai trò là lực lượng nòng cốt trong xây dựng củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Tập trung xây dựng lực lượng bộ đội thường trực, dự bị động viên và dân quân tự vệ có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, lập trường kiên định, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng. Bảo đảm giữ vững trận địa chính trị tư tưởng trong lực lượng vũ trang thành phố.
- Tăng cường các nguồn lực đầu tư phát triển các ngành kinh tế mang tính lưỡng dụng, vừa bảo đảm cho phát triển kinh tế - xã hội phục vụ đời sống dân sinh thời bình, tạo tiềm lực hậu cần nhân dân địa phương, hậu cần tại chỗ trong  khu vực phòng thủ thành phố.
- Chủ động nắm tình hình, đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, không để hình thành tổ chức chính trị đối lập, không để xảy ra biểu tình, bạo loạn, khủng bố. Chủ động xây dựng tổ chức thực hiện hiệu quả các phương án bảo đảm  an ninh trật tự; tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh văn hóa – tư tưởng, an ninh thông tin, an ninh xã hội. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ giáo dục, đào tạo nghề cho quân nhân xuất ngũ.
PHẦN THỨ BA
Tổ chức thực hiện
Sau khi HĐND thành phố ban hành Nghị quyết:
- UBND thành phố chỉ đạo tổ chức thực hiện Nghị quyết bằng các chương trình, kế hoạch cụ thể.
- Thường trực HĐND thành phố, các Ban HĐND, Tổ đại biểu HĐND và các đại biểu HĐND thành phố đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết này.
- Đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố và các đoàn thể, tổ chức xã hội tuyên truyền, quán triệt, tổ chức để đoàn viên, hội viên tích cực tham gia thực hiện Nghị quyết; đồng thời giám sát việc thực hiện Nghị quyết ở các địa phương, đơn vị.
- Các ngành, các cấp chủ trì xây dựng các Đề án chi tiết về tái cơ cấu, nâng cao chất lượng tăng trưởng của từng ngành, địa phương.
-Xác lập danh mục các dự án đầu tư hạ tầng trọng điểm.