Thứ Ba, 25 tháng 9, 2012


Khản năng xử lý nước thải phân tán theo mô hình bãi lọc trồng cây – hồ sinh học cho các đô thị và khu dân cư 
Sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên đã có những tác động bất lợi, gây ô nhiễm nguồn nước sông Cầu. Một trong những mục tiêu Đề án BVMT lưu vực sông (LVS) Cầu của tỉnh Thái Nguyên đến năm 2015 là từng bước hạn chế và giảm thiểu nguồn thải gây ô nhiễm ảnh hưởng đến nguồn nước sông. Trên cơ sở phân tích điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên cho thấy, tổ chức thoát nước và xử lý nước thải phân tán theo mô hình bãi lọc trồng cây - hồ sinh học là mô hình phù hợp cho các đô thị nhỏ và khu dân cư tỉnh Thái Nguyên.
1. Giới thiệu chung
LVS Cầu đang chịu tác động mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế - xã hội, đặc biệt của các khu công nghiệp, khu khai thác và chế biến khoáng sản, các đô thị và các tụ điểm dân cư. Quá trình phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh Thái Nguyên đã gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước do nước thải sinh hoạt và công nghiệp. Hiện nay, tổ chức thu gom và xử lý nước thải (XLNT) các đô thị, khu dân cư và công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên chưa hợp lý.
Theo Báo cáo hiện trạng môi trường của các tỉnh thuộc LVS Cầu những năm gần đây, nhiều vị trí trên sông Cầu từ thượng lưu đến hạ lưu đã có dấu hiệu bị ô nhiễm cục bộ. Nồng độ BOD5, COD, SS, dầu mỡ và một số chất ô nhiễm khác trong nước thải cao hơn quy định cho phép theo QCVN 08:2008/BTNMT hoặc QCVN 40:2011/BTNMT. Đặc biệt đoạn chảy qua TP. Thái Nguyên giá trị các thông số này vượt quá tiêu chuẩn nhiều lần.
Qua nghiên cứu hình thức XLNT phân tán theo mô hình là bãi lọc trồng cây và hồ sinh học đã và đang được áp dụng tại nhiều nơi trong cả nước và có hiệu quả XLNT tốt. Vì vậy, việc tìm hiểu khả năng ứng dụng giải pháp xử lý này cho XLNT sinh hoạt các khu dân cư và đô thị tại tỉnh Thái Nguyên là rất cần thiết nhằm góp phần giảm thiểu ô nhiễm cho các nguồn nước tiếp nhận LVS cầu.
2. Công trình bãi lọc trồng cây và hồ sinh học để xử lý nước thải sinh hoạt phân tán
Công trình bãi lọc trồng cây và hồ sinh học là các công trình XLNT trong điều kiện tự nhiên. Do kinh phí đầu tư xây dựng (không tính kinh phí đất xây dựng) thấp và vận hành đơn giản nên các công trình này được gọi là công trình XLNT chi phí thấp và được ứng dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển. Do tính đến quỹ đất xây dựng công trình và một số yếu tố tác động bất lợi đến môi trường như mùi hôi, thấm vào nước ngầm... mà các công trình bãi lọc trồng cây và hồ sinh học chỉ dùng để XLNT quy mô nhỏ và vừa. Ở Việt Nam công nghệ XLNT bằng hồ sinh học và bãi lọc trồng cây đã được ứng dụng trong nhiều năm gần đây.
Để đảm bảo được hiệu quả xử lý các chỉ tiêu ô nhiễm trong nước thải sinh hoạt cũng như tái sử dụng trong sinh hoạt và tạo cảnh quan sinh thái, người ta tổ chức hệ thống XLNT phân tán theo sơ đồ Hình 1.

a. Bãi lọc trồng cây
Bãi lọc trồng cây được xây dựng để XLNT hoặc nước mưa trong điều kiện tự nhiên. Nhờ quá trình sinh trưởng của hệ thực vật, vi sinh vật và các quá trình vật lý như: lắng, lọc, bốc hơi... mà các chất ô nhiễm trong nước thải được xử lý với hiệu quả cao. Hệ thống bãi lọc trồng cây cho phép đạt hiệu suất loại bỏ BOD tới 95% và nitrat hóa đạt 90%. Hệ thống này còn có khả năng lưu giữ tốt một số kim loại nặng trong giới hạn không gây độc cho hệ thực vật, vi sinh vật. Bãi lọc trồng cây có khả năng khử vi trùng thông qua các quá trình tiêu hủy tự nhiên, bức xạ tử ngoại, thức ăn của các loại động vật trong hệ thống... Các virus, mầm bệnh được khử trong công trình bãi lọc bằng các quá trình lắng lọc và tiêu hủy tự nhiên trong môi trường không thuận lợi.
Trồng cây trên các bãi lọc với các tác dụng là: Giảm vận tốc dòng chảy, tăng khả năng lắng cặn trên bãi; Giảm xói mòn và sục cặn từ đáy; Ngăn gió và tạo bóng, giảm sự phát triển của thực vật nổi; Góp phần biến đổi thế oxy hóa khử trong bãi lọc và là nơi vi khuẩn sống bám ở gần mặt nước, tạo điều kiện phân hủy các chất hữu cơ, loại bỏ N, P và diệt vi trùng gây bệnh. Thực vật trồng trong bãi lọc thường là các loại thực vật thủy sinh lưu niên, thân thảo xốp, rễ chùm, nổi trên mặt hoặc ngập hẳn trong nước, phổ biến nhất là cỏ nến, sậy, cói, bấc, lác...
Theo Nguyễn Việt Anh (2010), các mô hình XLNT phân tán với mô hình bể tự hoại cải tiến BASTAF kết hợp với bãi lọc trồng cây, cho phép xử lý nước thải đối với nước thải sinh hoạt, đô thị. Nước thải sau xử lý đạt tiêu chuẩn mức A QCVN 24:2009/BTNMT và QCVN 14:2008/BTNMT cho phép xả ra môi trường hay tái sử dụng lại nước thải.
b. Hồ sinh học
Hồ sinh học là các thủy vực tự nhiên hoặc nhân tạo, với quy mô nhỏ sẽ diễn ra quá trình chuyển hóa các chất bẩn. Quá trình này tương tự như quá trình tự làm sạch trong các sông hồ tự nhiên với vai trò chủ yếu là các loại vi khuẩn và tảo.
Khi vào hồ, do vận tốc dòng chảy nhỏ, các loại cặn lắng xuống đáy. Các chất bẩn hữu cơ còn lại trong nước sẽ được vi khuẩn hấp phụ và ôxy hóa mà sản phẩm tạo ra là sinh khối của nó, CO2, các muối nitrát, nitrít... Sự phân hủy chất hữu cơ được thực hiện nhờ sinh vật mà chủ yếu là vi khuẩn, một phần nhỏ nhờ Protozoa. Vi khuẩn sẽ tạo thành CO2 và nước trong điều kiện hiếu khí; tạo axit hữu cơ trong điều kiện yếm khí. Khí cacbonic và các hợp chất nitơ, phốt pho được rong tảo sử dụng trong quá trình quang hợp. Trong giai đoạn này sẽ giải phóng ôxy cung cấp cho quá trình ôxy hóa các chất hữu cơ của vi khuẩn. Sự hoạt động của rong tảo tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình trao đổi chất của vi khuẩn.
Do quá trình hoạt động quang hợp của tảo trong hồ, các ion carbonat và bicarbonat thực hiện các phản ứng cung cấp nhiều dioxit cácbon cho tảo và nhiều ion hy­droxyl được giải phóng, pH của nước có thể tăng lên đến gần 9,4 (Mara, 2005). Quá trình quang hợp làm pH tăng đi đôi với cường độ bức xạ trong hồ lớn. Đây chính là yếu tố kìm hãm phát triển của vi khuẩn gây bệnh (Mara, 2005). Nước xáo trộn tốt, vì do gió thổi trên tầng mặt tạo nên sự phân bố đồng nhất BOD, oxy hòa tan, vi khuẩn và tảo. Đó là các yếu tố chính làm tăng mức độ ổn định chất thải trong hồ (Mara và Pearson, 1987). Hệ thống hồ sinh học có thể loại bỏ được 80% Nitơ (Mara và các người khác, 1992). Phốt pho được loại bỏ khỏi nước trong hồ ổn định bằng cách hấp thụ vào sinh khối của tảo, hô hấp và lắng đọng (Mara và Pearson, 1986).
Hồ sinh học đã được nghiên cứu ứng dụng để xử lý nước thải đô thị và các khu dân cư ở nước ta.
3. Tổ chức XLNT phân tán cho các khu dân cư và đô thị tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi thuộc LVS Cầu có diện tích tự nhiên là 356,2 km2, dân số 1.123.116 người (tính đến 1/4/2009). Hiện nay, Thái Nguyên có 1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện. Dân cư đô thị tập trung chủ yếu tại các khu vực nội thành, nội thị và thị trấn, thị tứ. Các vùng ngoại thành, ngoại thị dân cư thưa thớt.
Thái Nguyên có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, tính trung bình cứ 1 km2 có 0,93 km sông, trong đó sông Cầu là dòng chảy chính, chiếm diện tích lưu vực lớn trên địa bàn tỉnh, phần lớn diện tích của tỉnh nằm trong LVS Cầu.
Thái Nguyên có hệ thống thoát nước chung trong đó lượng nước thải sinh hoạt phát sinh là 54.000 nghìn m-Vngày (năm 2010).

Ở các đô thị khác của tỉnh Thái Nguyên hầu hết chưa có hệ thống thu gom, thoát nước mưa, nước thải sinh hoạt riêng biệt, 100% nước thải sinh hoạt chưa được xử lý, đổ thải trực tiếp xuống các thủy vực, gây ô nhiễm môi trường. Tại các thị trấn và thị tứ, nước thải từ các khu nhà vệ sinh của các hộ gia đình, công sở, cơ quan, trường học... được xử lý sơ bộ qua bể tự hoại sau đó dẫn vào hệ thống thoát nước chung của đô thị và thải vào các nguồn tiếp nhận. Với hiện trạng thu gom xử lý như vậy, nước thải sinh hoạt đã trở thành một trong những nguồn gây ô nhiễm chính và khó kiểm soát đối với các thủy vực tiếp nhận tại Thái Nguyên, đặc biệt là với LVS Cầu.
Để ngăn ngừa và giảm thiểu những tác động ảnh hưởng xấu đến môi trường, sinh thái, cảnh quan LVS Cầu, thực hiện chủ trương chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, sau khi Đề án Tổng thể bảo vệ và phát triển bền vững môi trường sinh thái, cảnh quan LVS Cầu được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tỉnh Thái Nguyên đã phối hợp cùng 6 tỉnh LVS Cầu tổ chức thực hiện nhiều kế hoạch hoạt động BVMT sông Cầu. Mục tiêu tổng quát Đề án BVMT LVS Cầu của tỉnh Thái Nguyên đến năm 2015 là: Đảm bảo ổn định chất lượng nước trên các sông suối chưa bị ô nhiễm duy trì đạt giới hạn tiêu chuẩn nước cấp sinh hoạt; Từng bước hạn chế và giảm thiểu nguồn thải gây ô nhiễm ảnh hưởng đến sông Cầu; Ngăn chặn sự gia tăng ô nhiễm, đồng thời cải thiện, nâng cao chất lượng các dòng sông, suối; Xử lý các đoạn sông, khu vục bị ô nhiễm; Khôi phục và cải tạo cảnh quan, môi trường sinh thái ven sông Cầu.
Với điều kiện địa hình miền núi với các đồi thấp và dân cư đô thị có mật độ không cao, phân bố thành nhiều khu nên tổ chức thoát nước và XLNT tập trung là phức tạp. XLNT phân tán là phương án hợp lý đối với các đô thị nhỏ và các cụm dân cư vùng ven đô TP.Thái Nguyên và thị xã Sông Công.
Ngoài hệ thống thoát nước và XLNT tập trung tại TP.Thái Nguyên và thị xã Sông Công, các khu vực dân cư và đô thị khác của tỉnh Thái Nguyên có thể lựa chọn hình thức thoát nước và XLNT phân tán. Với lưu lượng nước thải của các đối tượng dao động từ 200 - 2.000 m3/ngày, mô hình xử lý theo sơ đồ bãi (cánh đồng) lọc trồng cây - hồ sinh học là mô hình lựa chọn hợp lý.
 Đối với bãi lọc trồng cây nên lựa chọn loại bãi lọc ngập nước phía dưới (lọc ngầm) với vật liệu lọc là cuội sỏi và cây trồng là các loại cỏ vertiver, cỏ nến, thiên điểu... Hồ sinh học sau bãi lọc trồng cây là hồ hiếu khí để xử lý các thành phần ô nhiễm hữu cơ, các chất dinh dưỡng và vi khuẩn gây bệnh còn lại. Nước thải sau xử lý có BOD, SS, TN, TP, coliform thấp, có thể tái sử dụng cho các mục đích rửa đường, tưới cây và là nguồn nước tạo cảnh quan sinh thái cho khu vực.
4. KẾT LUẬN
Là một tỉnh trung du miền núi phía Bắc, nằm trong LVS Cầu, nơi nguồn nước sông có xu thế ô nhiễm ngày càng gia tăng, vấn đề thu gom và XLNT sinh hoạt và dịch vụ từ các đô thị và khu dân cư trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên là rất cấp bách. Với địa hình đồi núi, nhiều sông suối, dân cư phân tán thì việc tổ chức thu gom và XLNT theo nguyên tắc phi tập trung cho các đô thị và khu dân cư tỉnh Thái Nguyên là hợp lý. Hệ thống XLNT phân tán với các công trình chính là bãi (cánh đồng) lọc trồng cây kết hợp và hồ sinh học sẽ có hiệu quả làm sạch nước thải cao, thân thiện với môi trường, chi phí vận hành thấp và nước thải sau xử lý có thể tái sử dụng cho các mục đích sử dụng khác nhau. Với công suất các trạm XLNT từ vài trạm đến vài nghìn m3/ngày, đây là mô hình thích hợp với điều kiện tự nhiên và đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội các đô thị tỉnh Thái Nguyên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quyết định số 479/2011/QĐ-UB của UBND tình Thái Nguyên Phê duyệt Kế hoạch triển khai Đề án bảo vệ môi trưởng lưu vục sông Cầu trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2011 - 2015.
2.Trần Đức Hạ. Xử lý nước thải sinh hoạt quy mô nhỏ và vừa. NXB Khoa học và Kỹ thuật, 2002.
3.D. Xanthoulis, Lều Thọ Bách, Trần Hiếu Nhuệ, Trần Đức Hạ và nnk. Xử lý nước thải chi phí thấp. Tài liệu giảng dạy cho cao học chương trình VN/Asia- Link/012 (113128) 2005-2008. NXB Xây dựng, 2008.
4.Trần Hiếu Nhuệ, Nguyễn Việt Anh và nnk. Nghiên cứu đề xuất các mô hình xử lý nước thải phân tán cho các đô thị loại 3,4 và 5 của Việt Nam. Đề tài KHCN cấp Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2001-2003.
5.Duncan Mara. Domestic wastewater treatment in developing countries. Earthscan, London, 2005.
6.www.thainguyen.gov.vn ngày 1/12/2010.

VN đàm phán WB về nước sạch, vệ sinh nông thôn
25/9/2012 8:42:33 AM
Ngày 24/9, Văn phòng Chính phủ đã có Công văn truyền đạt ý kiến của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải về việc đồng ý với đề nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc đàm phán với Ngân hàng Thế giới (WB) Hiệp định Tài trợ và các văn kiện pháp lý có liên quan của "Chương trình Nước sạch và Vệ sinh nông thôn dựa trên kết quả tại 8 tỉnh Đồng bằng sông Hồng."
​Đoàn đàm phán liên ngành gồm đại diện của các cơ quan: Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ, các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Ngoại giao, Tư pháp, Ủy ban Nhân dân của 8 tỉnh, thành phố tham gia Chương trình (Hà Nội, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên, Quảng Ninh, Hà Nam và Thanh Hóa) và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Đoàn Hoài Anh làm Trưởng Đoàn đàm phán liên ngành nêu trên.

Dự án cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn vùng Đồng bằng sông Hồng được Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA) thuộc Ngân hàng Thế giới tài trợ thông qua Trung tâm Quốc gia nước sạch và vệ sinh nông thôn thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, thời gian thực hiện từ 2005-2013.

Dự án được triển khai theo 2 giai đoạn, giai đoạn 1 (2005-2010) tại bốn địa phương, gồm Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định và Thái Bình; giai đoạn 2 (2008-2013) tại 8 địa phương, gồm Quảng Ninh, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hà Nam và Thanh Hóa.

Mục tiêu của dự án là đáp ứng nhu cầu dùng nước sạch của cộng đồng một cách đầy đủ, bền vững và hỗ trợ cộng đồng cải thiện các công trình vệ sinh hộ gia đình; nâng cao nhận thức của người dân về sử dụng nước sạch và các công trình vệ sinh, chấp nhận và thực hành các hành vi vệ sinh để cải thiện sức khỏe gia đình và sự nuôi dưỡng trẻ em.

Dự án cũng góp phần nâng cao năng lực của xã và thôn trong việc lập kế hoạch và quản lý các công trình hạ tầng cơ sở và năng lực của chính quyền địa phương trong việc tạo thuận lợi và hỗ trợ cho các sáng kiến của cộng đồng./.


Nước thải bệnh viện là một nguồn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng vì có hàm lượng hữu cơ, các chất dinh dưỡng cao và đặc biệt có chứa nhiều vi khuẩn, virut gây bệnh. Ở Việt Nam, các nhà khoa học đã nghiên cứu, phát triển nhiều công nghệ xử lý nước thải bệnh viện như bể sinh học tiếp xúc hiếu khí, công nghệ bùn hoạt tính trong các bể aeroten truyền thống, SBR-xử lý hiếu khí theo mẻ, lọc sinh học ngập nước, công nghệ AAO, công nghệ màng sinh học MBR… Tuy nhiên, các công nghệ này đòi hỏi chi phí đầu tư cao, vận hành gặp nhiều khó khăn.
Viện Công nghệ Môi trường, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam là một đơn vị có gần 10 năm kinh nghiệm trong việc nghiên cứu và phát triển công nghệ xử lý nước thải bệnh viện. Các nhà khoa học của Viện đã phát triển và hoàn thiện được một công nghệ xử lý nước thải bệnh viện mới có nhiều ưu điểm, phù hợp với điều kiện Việt Nam, khắc phục được hầu hết các nhược điểm của các công nghệ nêu trên. Đó là Công nghệ xử lý bằng phương pháp lọc sinh học nhỏ giọt cải tiến cấp khí tự nhiên.
Lọc sinh học nhỏ giọt là loại bể lọc sinh học với vật liệu tiếp xúc không ngập nước. Nước thải được chia thành các màng nhỏ chảy qua vật liệu đệm sinh học và nhờ sự có mặt của các vi sinh vật phân hủy hiếu khí trên lớp màng vật liệu mà các chất hữu cơ trong nước thải được loại bỏ.
Hệ thống xử lý nước thải y tế của Viện Công nghệ Môi trường có chi phí đầu tư và chi phí vận hành thấp hơn hẳn các phương pháp sinh học thông thường. Mặt khác, quy trình vận hành nó rất đơn giản, các thao tác được thực hiện dễ dàng và hoàn toàn tự động bởi hệ thống điều khiển. Ngoài ra công nghệ này không đòi hỏi nhiều diện tích xây dựng. Không giống như các công nghệ lọc sinh học ngập nước, lọc sinh học trong thiết bị hợp khối, thiết bị sinh học theo mẻ và bùn hoạt tính tuần hoàn đòi hỏi phải cung cấp không khí thường xuyên bằng các máy thổi khí thì lọc sinh học nhỏ giọt vẫn duy trì được sự sinh trưởng và phát triển của vi sinh vật cả khi mất điện hoặc nguồn điện không ổn định. Ngoài ra, do công đoạn xử lý sinh học diễn ra trong tháp dạng kín có thông khí tự nhiên nên không phải sục khí bằng máy bơm khí như những công nghệ khác. Thông thường những máy thổi khí này khi hoạt động tiêu tốn điện năng lớn và gây tiếng ồn, ngoài ra còn có thể phát tán vi khuẩn gây bệnh ra môi trường xung quanh.
Ưu điểm nổi bật nữa của công nghệ xử lý nước thải y tế của Viện Công nghệ môi trường là toàn bộ hệ thống thiết bị và vật liệu được sản xuất hoặc có sẵn ở trong nước nên việc bảo trì các bộ phận, bổ sung hoặc thay thế một phần vật liệu đệm sinh học sau 10-15 năm hoạt động được thực hiện dễ dàng với chi phí rất thấp.
Nước thải sau khi được xử lý bằng phương pháp lọc sinh học nhỏ giọt cũng sẽ được loại bỏ tách bùn ở bể lắng Lamell. Bùn thải được xử lý ở bể phân hủy yếm khí. Kết thúc quá trình xử lý là khâu khử trùng. Viện Công nghệ môi trường cũng phát triển và sản xuất chất khử trùng natri hypoclorit từ nước muối bằng phương pháp điện hóa. Đây là phương pháp áp dụng công nghệ tiên tiến trên thế giới, thân thiện với môi trường, chi phí rẻ, không sử dụng hóa chất làm nguồn nguyên liệu đầu vào.
Áp dụng những kết quả nghiên cứu của mình vào thực tiễn, Viện Công nghệ môi trường đã chuyển giao công nghệ, thi công, lắp đặt hàng chục dây chuyền công nghệ này tại nhiều bệnh viện, các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm như chế biến sữa, sản xuất rượu bia... và  đã thu được kết quả rất tốt như Bệnh viện Đa khoa Tuyên Quang (công suất Q=330 m3/ngày đêm), Bệnh viện Lao Thái Nguyên (Q=160 m3/ngày đêm), Bệnh viện C Thái Nguyên (Q=360 m3/ngày đêm), Bệnh viện A Thái Nguyên (Q=360 m3/ngày đêm), Bệnh viện Đa khoa Quỳnh Phụ Thái Bình (Q=130 m3/ngày đêm), Bệnh viện tâm thần kinh Hưng Yên (150 m3/ngày đêm, Nhà máy sữa Mộc Châu Q=250 m3/ngày đêm, Trụ sở Công an Tỉnh Quảng Bình (Q=50 m3/ngày đêm), Công ty cổ phần sữa Hà Nội, Hanoi Milk (300m3/ngày đêm)...
 
    
Hình 1, 2. Hệ thống xử lý nước thải do Viện Công nghệ môi trường
chế tạo và lắp đặt tại bệnh viện C Thái Nguyên và bệnh viện Tâm thần kinh Hưng Yên 
 
 
   
Hình 3, 4. Hệ thống xử lý nước thải tại bệnh viện Đa khoa Tuyên Quang và
bệnh viện Gang thép Thái Nguyên
 
Và gần đây nhất là ngày 17/7/2012, hệ thống xử lý nước thải với công nghệ lọc sinh học cải tiến của Viện Công nghệ Môi trường cho Bệnh viện Quân dân y Tỉnh Đồng Tháp đã được khánh thành đưa vào sử dụng. Hệ thống xử lý có công suất 130m3/ngày đêm, chất lượng xử lý đạt QCVN 28:2010, mức A. Đây là kết quả hợp tác Khoa học và phát triển công nghệ giữa Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam và UBND Tỉnh Đồng Tháp. 
  
 Hình 5, 6 và 7. Lễ bàn giao Hệ thống xử lý nước thải bệnh viện Quân dân y tỉnh
Đồng Tháp 130 m3/ngày đêm và một số hình ảnh hệ thống xử lý nước thải
 
Có thể nói, xử lý nước thải bệnh viện bằng phương pháp lọc sinh học nhỏ giọt là phương pháp hiệu quả, rất phù hợp với điều kiện Việt Nam, giúp giải bài toán môi trường và kinh tế cho các bệnh viện ở nước ta hiện nay.

Thứ Năm, 13 tháng 9, 2012


Hội thảo Sửa đổi, bổ xung nghị định 88/CP về thoát nước đô thị và Khu công nghiệp

13/09/2012 19:33
Sáng 13/9, tại Hà Nội đã diễn ra buổi Hội thảo góp ý dự thảo sửa đổi, bổ sung nghị định 88/2007/NĐ-CP về thoát nước đô thị và khu công nghiệp (KCN). Do Bộ Xây dựng phối hợp với Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (Giz) nhằm thực hiện chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và các đề án năm 2012 tổ chức nghiên cứu sửa đổi, bổ sung nghị định 88 của Chính phủ.
Tham dự Hội thảo có ông Nguyễn Hồng Tiến, Cục trưởng Cục Hạ tầng kỹ thuật, Bộ Xây dựng, ông Hanns Bernd Kuchta, Giám đốc chương trình Quản lý nước thải và chất thải rắn, Giz. Phát biểu khai mạc hội thảo ông Nguyễn Hồng Tiến cho biết: Sau 5 năm thực hiện, trên cơ sở báo cáo đánh giá của các địa phương và của các Bộ, ngành để tổng hợp đánh giá tình hình thực hiện đồng thời kiến nghị và sửa đổi, bổ xung NĐ 88.
Trong đó công tác Quy hoạch thoát nước dựa trên cơ sở nội dung quy hoạch đã được quy định, phân loại quy hoạch thoát nước của 4 vùng kinh tế trọng điểm (Vùng KTTĐ Bắc Bộ, vùng KTTĐ Miền Trung, Phía nam và đồng bằng Sông Cửu Long), quy hoạch thoát nước 3 lưu vực sông lớn ( Lưu vực sông Cầu, Sông Nhuệ - Đáy và lưu vực sông Đồng Nai); quy hoạch thoát nước là một nội dung của quy hoạch xây dựng vùng TP.Hà Nội, vùng Tp Hồ Chí Minh đã được Thủ tướng CP phê duyệt. Tuy nhiên, quy định về nội dung quy hoạch thoát nước còn nhiều điểm bất cập về giai đoạn lập quy hoạch, quy định hiện nay cho việc lập quy hoạch phần lớn cho giai đoạn đầu là 10 đến 15 năm và giai đoạn sau trên 20 năm. Cho thấy việc quy định cho cả hai loại quy hoạch cùng một giai đoạn lập quy hoạch là chưa hợp lý, đồng thời quy hoạch nước vùng vẫn chưa làm rõ phạm vi, quy mô lập quy hoạch là vùng tỉnh hay vùng liên tỉnh. Đồng thời cần ban hành các quy định về quy chuẩn, tiêu chuẩn cũng như quy định về quản lý hoạt động thoát nước thải tại các địa phương.
Đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước và xử lý nước thải cũng là một vấn đề được hội thảo quan tâm. Mặc dù đầu tư vào lĩnh vực thoát nước và xử lý nước thải đắt hơn nhiều lần so với cấp nước nhưng các địa phương cũng như hầu hết các đô thị tỉnh ly đều có dự án thoát nước và vệ sinh môi trường với quy mô khác nhau. Cụ thể tại các đô thị nhiều dự án đầu tư xây dựng nhà máy xử lý nước thải đã được đưa vào sử dụng. Đến nay đã có 17 nhà máy xử lý nước tập trung với công suất thiết kế đạt khoảng 565.000m3/ng.đ. ( trong đó có nhà máy với công suất rất lớn đã đi vào hoạt động như nhà máy nước thải Bình Hưng – TP. HCM công suất 200.000m3/ng.đ, hay nhà máy xử lý nước thải tại Yên Sở - Hà Nội công suất 200.000 m3/ng.đ. Trong đó vấn đề quy định về chủ sở hữu cũng như phí thoát nước như thế nào cho phù hợp cũng được các đại biểu đưa ra thảo luận. Và đó cũng là một trong những nội dung được đưa ra chỉnh sửa, bổ sung.
Tại Hội thảo một số tham luận về phí thoát nước thực trạng và đề xuất sửa đổi của Cục Hạ tầng kỹ thuật, một số địa phương như Hải Phòng trình bày tại Hội thảo những kinh nghiệm về thu phí thoát nước đã được các đại biểu đánh giá cao, bên cạnh đó những kinh nghiệm lập và ban hành Quy chế quản lý thoát nước thành phố Bắc Ninh cũng là những tham luận được Hội thảo chọn lọc đưa vào báo cáo trình CP.

Thứ Ba, 11 tháng 9, 2012


Cảnh báo tình trạng thất thoát nước tại các đô thị

11/09/2012 16:23
Với thực trạng hầu hết các hệ thống Ccấp nước Việt Nam còn nhiều thô sơ, đường ống nước lâu năm, lại bị một số đối tượng tự khai thác sử dụng nước một cách tùy tiện, bất hợp pháp làm ô nhiễm nguồn nước sạch, nhất là hệ thống cấp nước tại các đô thị Việt Nam vẫn đang ở tình trạng tỷ lệ nước sạch bị thất thoát lớn (30%).
Thực trạng thất thoát nước sạch do tự ý khai thác sử dụng tùy tiện
Theo ông Nguyễn Hồng Tiến, Cục trưởng Cục Hạ tầng kỹ thuật, Bộ Xây dựng cho hay, Việt Nam có 755 đô thị với tỷ lệ đô thị hóa là 31% và sẽ đạt con số 50% trong năm 2025. Tuy nhiên, thất thoát nước đang là một trong những thách thức trong quá trình đô thị hóa khi tỷ lệ thất thoát nước của Viêt Namlên tới 29%. Hiện cả nước hiện có 68 công ty cấp nước, mới chỉ cung cấp dịch vụ cho khoảng 70% dân số ở hơn 750 đô thị.
Thời gian qua, các bộ ngành Trung ương và các công ty cấp nước đã triển khai nhiều giải pháp chống thất thoát, thất thu nước sạch nên tỷ lệ thất thoát bình quân toàn quốc đã giảm từ 42% (năm 1998) xuống còn 30% hiện nay. Tuy nhiên, so với các nước tiên tiến và các nước trong khu vực Đông Nam Á, tỷ lệ này vẫn còn cao. Nguyên nhân là do giá nước sạch chưa được tính đúng, tính đủ để đảm bảo các đơn vị cấp nước chủ động trong sản xuất kinh doanh cũng như tập trung sửa chữa, thay thế và bảo trì hệ thống đường ống.
Bên cạnh đó, hoạt động chống thất thoát, thất thu nước sạch chưa có tính chất liên tục và chỉ đạo xuyên suốt từ trung ương đến địa phương; các chế tài về giảm tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch vẫn chưa có quy định cụ thể. Mặt khác, hoạt động chống thất thoát, thất thu nước sạch đòi hỏi nguồn vốn đầu tư khá lớn, trong khi đó các đơn vị cấp nước đang thiếu nguồn vốn đầu tư.
Hiện nay, Bộ đã trình Chính phủ phê duyệt “Chương trình Quốc gia chống thất thoát nước sạch đến năm 2025”, với mục tiêu 100% dân số đô thị được dùng nước sạch vào năm 2020, giảm tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch bình quân còn 15% năm 2025.
Dự kiến, tổng nguồn vốn đầu tư cho chương trình khoảng 9.400 tỷ đồng từ ngân sách, nguồn vốn ODA, tín dụng ưu đãi của nhà nước và các nguồn vốn khác.
Để chống thất thoát, thất thu nước sạch, Hội Cấp thoát nước Việt Nam, các công ty cấp nước và các chuyên gia quốc tế đã đề xuất nhiều giải pháp, trong đó tập trung tập huấn cho các doanh nghiệp quán triệt nội dung chương trình chống thất thoát, thất thu nước sạch sau khi Chính phủ phê duyệt.
Các công ty cấp nước phải thực hiện phân vùng tách mạng nhằm lập lại bản đồ, hồ sơ mạng đường ống cho từng quận, phường, đánh giá đúng thực trạng chất lượng đường ống để lập kế hoạch sửa chữa và nâng cấp; đầu tư các trang thiết bị mới phát hiện rò rỉ.
Khai thác nước trái phép quản lý bằng cách nào?!
Có thể nói việc khai thác nước tùy tiện và trái phép ngày càng gia tăng và khó kiểm soát. Đơn cử cứ mỗi hộ gia đình sau khi sửa sang nhà cửa, thay đổi lại đường ống nước là tự ý đào, đục đường ống dẫn nước nối trực tiếp vào nhà mà khồng qua đồng hồ. Hầu như những hộ gia đình này đều biết việc tự ý đào đục đường ống nước là trái phép, nhưng vì lợi ích cá nhân trước mắt họ đã tùy tiện thực hiện bằng cách đào đục vào ban đêm và không để lại dấu vết gì. Việc này có thể nhiều người biết đến nhưng cơ quan chủ quản trực tiếp như các công ty cấp nước thì không bắt được nên chưa thể xử lý một cách triệt để.
Đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh trong 7 tháng đầu năm 2012, Cty NSHN vẫn còn 3 đơn vị chưa hoàn thành kế hoạch SXKD do Công ty giao (Xí nghiệp KDNS Đống Đa, Hoàn Kiếm và Ba Đình) đặc biệt là kế hoạch về tỷ lệ nước thu tiền, gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc hoàn thành kế hoạch SXKD của toàn Công ty. Trước tình hình đó, Ban lãnh đạo Công ty cùng các phòng ban chức năng đã xuống đơn vị trực tiếp làm việc với lãnh đạo các Xí nghiệp để rà soát nguyên nhân và tìm ra phương hướng giải pháp tháo gỡ khó khăn, tăng cường công tác quản lý nhằm tạo điều kiện cho 3 Xí nghiệp cùng các đơn vị khác trong toàn Công ty tập trung cao độ hoành thành các chỉ tiêu kế hoạch năm 2012. Làm việc với các đơn vị, đồng chí Nguyễn Như Hải, Tổng giám đốc Công ty NSHN đã ghi nhận những cố gắng của các XN trong thời gian qua, đồng thời cũng chỉ ra nhiều hạn chế trong công tác quản lý điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ của các đơn vị. Trên cơ sở đó, Tổng giám đốc đã giao cho các đơn vị một số nhiệm vụ trọng tâm cuối năm: Yêu cầu các XN nhanh chóng củng cố bộ máy tổ chức, phân công nhiệm vụ, nâng cao trình độ tư duy, năng lực quản lý điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao, tăng cường chống thất thoát cơ học bằng các biện pháp quản lý mạng- vận hành mạng: Vận hành điều tiết áp lực, lưu lượng đảm bảo cấp nước theo nhu cầu và đảm bảo dịch vụ cấp nước đồng đều trên các địa bàn; Tăng cường phát hiện và xử lý các điểm rò rỉ, phối hợp với các đơn vị cải tạo hạ tầng trên địa bàn để bảo vệ hệ thống cấp nước; Thay thế đồng hồ định kỳ đúng kế hoạch để kiểm soát chất lượng hệ thống đo đếm; Đẩy nhanh tiến độ các dự án cải tạo mạng, sớm đưa các dự án vào phát huy hiệu quả; Trong công tác quản lý chống thất thoát thương mại: tăng cường công tác ghi thu – áp giá; củng cố bộ máy thanh tra, phối hợp với Chính quyền địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền sử dụng nước tiết kiệm đến từng khách hàng đồng thời phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm quy chế sử dụng nước… Về phía Công ty, TGĐ cũng giao nhiệm vụ cho các phòng ban chức năng nghiên cứu xây dựng các cơ chế đặc thù, hướng dẫn về mặt nghiệp vụ, theo dõi đôn đốc để tạo điều kiện cho các XN thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Có thể thấy rằng giảm tỉ lệ thất thoát thất thu nước sạch là điều đang được các Cty thực hiện một cách tích cực. Tuy nhiên để cải thiện tình trạng thất thoát nước, và ô nhiễm nguồn nước rất cần sự hiểu biết và thực hiện của từng hộ dân và từng người dân. Vì vậy để giải quyết triệt để tình trạng khai thác nước tùy tiện công tác tuyên truyền sâu rộng cho người dân hiểu và thực hiện đang là một việc làm cấp thiết mà mỗi công ty cấp nước cần phải làm ngay./.
Thanh Huyền

Thứ Năm, 30 tháng 8, 2012


Rao bán doanh nghiệp: Tỷ đô có dễ?
...
Tiếp sau các thương vụ đình đám như Phở 24, Highlands Coffee bán cho Jollibee hơn 20 triệu USD, Masan huy động cả tỷ USD từ nhiều công ty tài chính nước ngoài là các “tin đồn” liên quan đến các vụ mua bán của những thương hiệu nổi tiếng của Việt Nam như Tân Hiệp Phát, Vinamit, Trung Nguyên hay Kinh Đô.
“Giậu đổ bìm leo” - những tin đồn vừa cho thấy sự quan tâm của dư luận về số phận của các thương hiệu Việt, vừa cho thấy sức nóng của thị trường mua bán - sáp nhập (M&A) trong thời điểm khó khăn của doanh nghiệp Việt Nam trước nguy cơ thâu tóm từ các đối thủ lớn nước ngoài.
Tân Hiệp Phát: Tin đồn tỷ đô
Trong hơn 4 năm qua, Tân Hiệp Phát luôn là cái tên được “săn mua” nhiều nhất. Dĩ nhiên, trong làn sóng M&A cao trào hiện nay, cái tên này lại được đưa ra để “định giá”.
“Mọi hoạt động của Tân Hiệp Phát vẫn bình thường, chỉ có điều, có nhiều đối tác đến khiến chúng tôi không hiểu chuyện gì đang xảy ra! Nhưng như vậy chúng tôi cũng thấy đường hướng của mình là đúng”, bà Trần Uyên Phương, Phó tổng giám đốc Công ty Tân Hiệp Phát, đã trả lời như vậy khi được hỏi về tin đồn: “Tân Hiệp Phát đang rao bán với giá 1 tỷ USD, có đối tác trả một nửa giá này rồi nhưng đã bị từ chối”.

Tuy nhiên, bà Phương không phủ nhận việc Tân Hiệp Phát lâu nay vẫn là đối tượng “tìm mua” của “hầu hết các thương hiệu nước giải khát hàng đầu thế giới”. “Thời điểm năm 2008 khi làn sóng M&A đang phát triển cũng như việc các công ty đua nhau lên sàn, nhiều nhà sản xuất trong ngành hàng tiêu dùng nhanh đã tiếp cận lãnh đạo Tân Hiệp Phát và đặt vấn đề mua thương hiệu này”, bà Phương cho biết.

Hiện Tân Hiệp Phát có tới 10.000 nhân viên, là thương hiệu hàng đầu ngành hàng nước giải khát, hệ thống phân phối phủ rộng khắp cả nước cùng 40 mặt hàng với sản phẩm chủ lực là trà và nước tăng lực. Vậy nếu bán, Tân Hiệp Phát sẽ được định giá là bao nhiêu, con số 1 tỷ USD liệu là cao hay thấp? Tân Hiệp Phát sẽ chọn phương án “bán” nào, bán trọn hay chỉ gọi thêm vốn?

Công ty Nghiên cứu thị trường ACNielsen đánh giá Tân Hiệp Phát là công ty lớn nhất thị trường với các sản phẩm trà đóng chai, nước tăng lực và bia. Công ty này thường không công bố doanh số nhưng nếu dự tính của Nielsen về thị phần 24% của toàn bộ thị trường đồ uống nhẹ trị giá 2,2 tỷ USD là đúng, thì doanh số của Tân Hiệp Phát vào khoảng 500 triệu USD. Con số này chưa bao gồm bia và sản xuất chai nhựa PET bán cho các công ty khác, vốn chiếm 10% tổng doanh số của Tân Hiệp Phát.

“Việc Tân Hiệp Phát có bán với giá 1 tỷ USD hay không sẽ tùy thuộc vào sự gặp nhau giữa bên bán và bên mua. Tiếp cận theo phương pháp thị trường, nếu giá 1 tỷ USD đủ để làm bên bán thỏa mãn và hài lòng bên mua thì không đắt; nếu không ai mua với giá này thì sẽ đắt và ngược lại nhiều người muốn mua thì sẽ rẻ.

Hiện tại, Tân Hiệp Phát đang đẩy mạnh đầu tư để củng cố vững chắc hơn nữa vị trí dẫn đầu ngành hàng nước giải khát. Dù công suất nhà máy hiện tại ở Bình Dương đã đạt 1 tỷ lít/năm nhưng Tân Hiệp Phát vẫn mở thêm hai nhà máy mới ở miền Trung và miền Bắc với vốn đầu tư 200 triệu USD. Tháng 5 vừa qua, nhà máy ở Khu công nghiệp Bắc Chu Lai đã khởi công xây dựng, có diện tích 23ha với công suất thiết kế 600 triệu lít/năm, đầu tư mới 100% toàn bộ các dây chuyền sản xuất đồng bộ và hiện đại nhất từ châu Âu. Dự kiến, vào tháng 12/2013, nhà máy sẽ hoàn thành và đưa vào hoạt động sơ bộ 3 dây chuyền sản xuất. Nhà máy thứ hai đặt ở Hà Nam, có diện tích 15ha, dự kiến khởi công vào tháng 10 năm nay.
Xét về giá trị nội tại thì cần phải ước tính dòng tiền tương lai, và điều này tùy thuộc rất nhiều vào dự báo viễn cảnh tương lai của Tân Hiệp Phát về lợi thế cạnh tranh, viễn cảnh thị trường và các yếu tố liên quan”, ông Nguyễn Trung Thẳng, Chủ tịch HĐQT Masso Consulting, phân tích về khả năng định giá mua Tân Hiệp Phát.

Phân tích trường hợp của Tân Hiệp Phát có thể nhìn nhận lại thương vụ bán Phở 24. Giới kinh doanh gần như chỉ biết đến giao dịch M&A giữa Highlands Coffee và Phở 24 khi nó kết thúc với việc 100% vốn cổ phần Phở 24 thuộc về Highlands Coffee. Giả định giá giao dịch đúng là hơn 20 triệu USD như lời đồn đại trong giới đầu tư tài chính thì cũng khó đánh giá mức này là cao hay thấp.

Tùy vào động cơ và chiến lược của bên mua mà giá trị tích hợp lớn hay nhỏ. Nếu chủ sở hữu mới khai thác thương hiệu Phở 24 cho toàn bộ chuỗi bán lẻ của họ ở Philippines và dùng nó khai thác thị trường thế giới, khi đó dòng tiền tương lai sẽ rất lớn và con số 20 triệu USD có thể được coi là không hề đắt.

Mặc dù vậy, bà Phương đã phủ nhận việc rao bán Tân Hiệp Phát. “Mục đích của chúng tôi không phải là để thoái vốn. Hoài bão của chúng tôi là xây dựng thương hiệu Việt Nam trên trường quốc tế. Chúng tôi sẵn sàng mời đối tác nào nếu họ có thể đóng góp trong việc phát triển, tạo thêm cho sự phát triển bền vững của tổ chức”, bà Uyên Phương khẳng định. Cùng với việc đầu tư mở rộng sản xuất, Tân Hiệp Phát cũng đã có kế hoạch niêm yết nhưng thời điểm nào thì chưa thể tiết lộ.

Thủ thuật rao bán
Như một thủ thuật bán hàng, nhiều doanh nghiệp (DN) Việt Nam dù hoạt động tốt nhưng vẫn rao bán hoặc tìm kiếm đối tác sang nhượng cổ phần vì cho rằng đây là thời điểm các nhà đầu tư “có tâm lý sẽ mua được giá hời”.
Cách đây vài năm, các thương vụ mua bán thương hiệu của Việt Nam đã diễn ra. Tiêu biểu có thương vụ Unilever mua lại thương hiệu kem đánh răng P/S với giá 5 triệu USD; Colgate mua lại thương hiệu kem đánh răng Dạ Lan với giá 3 triệu USD...
Từ đó đến nay, mỗi năm có tới hàng ngàn DN cổ phần hóa hoặc có nhu cầu thay đổi về quyền sở hữu, cơ cấu lại vốn, đã kéo theo nhu cầu về định giá thương hiệu. Các “tin đồn” liên quan đến việc mua bán các thương hiệu nổi tiếng của Việt Nam như Tân Hiệp Phát, Masan, Vinamilk... vì thế đang bùng phát kèm theo hàng loạt vụ mua bán có thực như Phở 24, Highlands Coffee, Tribeco hay Diana...

Trong vòng 3 năm trở lại đây, Masan Group (MSN ) đã huy động được hơn 1 tỷ USD vốn (cả vốn vay và vốn cổ phần), chủ yếu từ các định chế tài chính - một kỷ lục đối với các DN tư nhân trong nước.

Danh sách các đối tác của Masan có: BankInvest, Quỹ Vietnam Azalea Fund thuộc Mekong Capital rót thêm 9 triệu USD vào Masan Food, TPG (Texas Pacific Group), House Foods, Mount Kellet và Richard Chandler Corporation, thậm chí có các khoản vay từ IFC và Goldman Sachs. Sự kiện của Masan cho thấy khả năng “rao bán” thương hiệu Việt với giá tỷ USD là hoàn toàn có thể.

Thực tế, nhu cầu về mua bán, nhượng quyền thương hiệu trong kinh doanh đang ngày càng gia tăng. Theo ông Nguyễn Trung Thẳng, Chủ tịch HĐQT Masso Consulting, có rất nhiều động cơ để người chủ muốn bán DN 100%.
Có thể quy mô DN đã quá lớn, vượt quá tầm kiểm soát và quản trị của gia đình, nên bán trước khi xảy ra khủng hoảng; cũng có thể chủ DN đã mệt mỏi vì lý do sức khỏe, hoặc không có người kế thừa, hoặc không còn cảm hứng điều hành, hoặc sức ép tài chính, hoặc cần một số tiền lớn để nghỉ hưu hoặc kinh doanh lĩnh vực khác...
Tuy nhiên, có một thực tế rõ ràng là các vụ mua bán nở rộ trong thời điểm hiện nay cho thấy, hoặc các DN Việt Nam đã đuối sức trong khó khăn, hoặc các nhà đầu tư quốc tế cho rằng đây là thời điểm thuận lợi để mua rẻ hoặc thâu tóm các thương hiệu tốt của Việt Nam.

Chẳng hạn, năm 2011, Viễn Thông A bán 30% cổ phần cho DTMobile, một thương hiệu lớn trong ngành bán lẻ thiết bị viễn thông Nhật Bản. Việc mua bán này giúp cho Viễn Thông A có được một lực đẩy lớn để phát triển.

Tuy nhiên, dường như các cuộc mua bán vẫn không dừng lại. Thời gian gần đây, Viễn Thông A liên tục gặp gỡ các đối tác khác và trở thành thương hiệu được “săn mua” nhiều trong lĩnh vực bán lẻ công nghệ. Theo bà Hoàng Ngọc Vy, Tổng giám đốc Viễn Thông A, với mạng lưới hơn 70 siêu thị và trung tâm bảo hành trên toàn quốc, Viễn Thông A không phát triển đa ngành hay đầu tư dàn trải nên nhu cầu tài chính của Viễn Thông A không bức bách.
Bà cho biết, Viễn Thông A đang chào đón các đối tác thấy được tiềm năng của Viễn Thông A và sẵn sàng nhượng lại cổ phần để có thể mở rộng DN này. “Tuy nhiên, cần lưu ý là chúng tôi mua bán chứ chắc chắn không sáp nhập”, bà Vy khẳng định.

Với trường hợp nhượng 30% cổ phần cho TDMobile trong năm 2011, TDMobile có tham gia vào HĐQT cũng như Ban giám đốc của Viễn Thông A. Thấy được tiềm năng từ Viễn Thông A, nhiều thông tin đưa ra cho thấy TDMobile đã có ý định mở rộng hợp tác, mua thêm cổ phần nhưng Viễn Thông A vẫn còn để ngỏ lời đề nghị này.

Bà Hoàng Ngọc Vy chia sẻ: “Mỗi cổ đông của Viễn Thông A có một giá trị khác nhau. Chúng tôi đang tìm kiếm và thương lượng để có cổ đông mới nếu xét thấy phù hợp với chiến lược phát triển của Viễn Thông A”.

Trong khi thị trường mua bán đang phát triển thì dịch vụ định giá thương hiệu ở Việt Nam còn hạn chế, phần lớn các DN có nhu cầu đang gặp khó khăn, lúng túng trong việc định giá thương hiệu như thế nào cho hợp lý. Bởi vì có quá ít tổ chức làm dịch vụ thẩm định giá có đủ uy tín và năng lực thực hiện định giá thương hiệu, nhất là định giá các thương hiệu lớn, có uy tín trên thị trường.

Đặc biệt, hành lang pháp lý cho các DN định giá thương hiệu còn thiếu và chưa đầy đủ. Vì thế mới có chuyện cùng một Tân Hiệp Phát mà có tới hai giá “mua”, chênh nhau nửa tỷ USD! Trong khi đó, Tân Hiệp Phát có kế hoạch tài chính rất bài bản thông qua việc thuê các nhà quản lý nước ngoài như Giám đốc Thương mại William Doheny, cựu quản lý của Coca-Cola, và Giám đốc Tài chính Peter Davies từng làm việc cho Công ty Kiểm toán hàng đầu Deloitte.

Công ty Eden được thành lập vào năm 1989 và cổ phần năm 2005, trong đó có 20% vốn của Tổâng công ty Du lịch Sài Gòn. Eden hiện nay tập trung đầu tư nhiều cho các dự án bất động sản du lịch tại Phú Quốc, Nha Trang, Vũng Tàu và Bình Thuận; dự án nhà ở có Thảo Điền Villa, Bình Trưng Đông và Khu dân cư Bình Chánh 7,5ha.

Eden Group vừa nhận một “chào mua” từ một quỹ đầu tư của Hồng Kông nhưng theo bà Huỳnh Kim Đoan, Phó tổng giám đốc Eden Group, trước khi bán, Eden Group phải xúc tiến hàng loạt công tác chuẩn bị: pháp lý các dự án, kiểm toán theo chuẩn quốc tế, và tái cấu trúc nhân sự hệ thống nội bộ...
Theo luật sư Trương Nhật Quang, Văn phòng luật Công ty YKVN, thị trường M&A Việt Nam mới phát triển trong 4 năm qua, đi từ đầu tư của nước ngoài nên số lượng các công ty tư vấn kiểm toán hay bán chiến lược công ty cũng chưa nhiều. Chỉ có khoảng 4, 5 công ty có thể thực hiện những vụ M&A phức tạp trên thị trường.
Các giao dịch từ 50 triệu USD chắc chắn phải cần cái nhìn nghiêm túc của nhà tư vấn. Các đối tác tư vấn có uy tín thì ngay bản thân họ đã làm tăng giá trị DN.

“Xu hướng bán công ty, thương hiệu Việt cho nước ngoài trong bối cảnh kinh tế khó khăn hiện nay cũng là một cảnh báo tốt với giới doanh nhân Việt Nam. Họ cần phải tư duy lại về vai trò của mình với DN, cần xác định rõ động cơ kinh doanh kiếm tiền hay tự hào dân tộc, hay cả hai? Sáng lập, chủ sở hữu hay điều hành, hay kết hợp? Người Việt vốn thường xuất thân là kinh tế gia đình, nên việc định vị các yếu tố này thường không rõ ràng và vì thế thường có cảm giác đánh mất công ty khi bán DN. Đã đến lúc họ cần định vị lại vai trò của cá nhân đối với DN trong một nền kinh tế thị trường và tách biệt sở hữu điều hành là việc hết sức bình thường”, ông Thẳng đặt vấn đề.

Theo DNSG


Hà Nội sẽ có tuyết rơi do... biến đổi khí hậu?!

30/08/2012 20:40
"Nếu không giữ gìn môi trường, Hà Nội có thể sẽ có tuyết rơi", đó là lý giải của nhóm tác giả bộ ảnh 3D về một Hà Nội tràn ngập trong tuyết trắng.
Bộ ảnh 3D về một Hà Nội phủ kín bởi tuyết nằm trong cụm 100 tác phẩm của Triển lãm ảnh 3D Hà Nội - Những góc nhìn thời gian sẽ khai mạc chiều nay, 30/8 tại Nhà Triển lãm 45 Tràng Tiền, Hà Nội.
BTC Triển lãm Hà Nội - Những góc nhìn thời gian cho biết, 100 hình ảnh trong triển lãm sẽ tái hiện lại không gian phố cổ Hà Nội cuối thế kỷ XI đến giữa thế kỷ XX nhằm tái tạo một thủ đô qua công nghệ không gian 3 chiều với đầy đủ màu sắc thời gian, không gian và những sự vật chứng nhân lịch sử…
Song một số bức ảnh trong triển lãm, nhiều người không khỏi sửng sốt khi chứng kiến một Hà Nội hoàn toàn khác, một Hà Nội có lá phong đỏ và có tuyết rơi với khung cảnh hao hao giống với Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc...
Theo lý giải của BTC, đây là thông điệp về sự biến đổi khí hậu – nếu chúng ta không giữ gìn môi trường thì Hà Nội có thể sẽ có tuyết rơi. Và một số bức ảnh mang tính “thậm xưng” với thông điệp muốn đưa một góc nhìn khác về các di tích, thắng cảnh Hà Nội biến đổi theo thời gian chứ không phải là phục dựng. Song không ít ý kiến cho rằng, những lý giải trên là thiếu thỏa đáng khó mà tìm sự liên hệ nào giữa Hà Nội với lá phong đỏ và… tuyết!
Một số hình ảnh tuyết rơi ở Hà Nội:

Nếu không yêu Hà Nội, không nhận ra Khuê Văn Các thì khó lòng mà không khỏi lầm tưởng về một mùa thu của Hàn Quốc hay Nhật Bản xa xôi

Nhà hát Lớn Hà Nội trông khá lạ lẫm

Tuyết sắp rơi ở Chùa Một Cột?

Tuyết phủ trắng Khuê Văn Các?

Người xem khó mà nhận ra đây là Nhà thờ Hà Nội nếu không có dòng chú thích bởi bức ảnh được diễn họa chẳng khác nào một khung cảnh quen thuộc ở Nga

Vật liệu

Sản xuất thành công gạch ốp lát Clinker

30/08/2012 20:50
Công ty CP VIGLACERA Hạ Long đã chính thức sản xuất thành công sản phẩm gạch ốp lát Clinker. Đây là bước tiến quan trọng về công nghệ của Viglacera trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng tại Việt Nam.
Gạch Clinker là loại gạch ốp lát cao cấp, có độ bền gần như vĩnh cửu, chịu được sự khắc nghiệt của môi trường. Gạch được ép đùn, không tráng men, thời gian nung dài. Đây là dòng sản phẩm của VIGLACERA tập trung phát triển vào đặc tính độ bền hóa học và khả năng chịu đựng tại những khu vực có mật độ đi lại lớn, độ mài mòn cao…
Ông Trần Hồng Quang, Tổng giám đốc công ty CP Viglacera Hạ Long cho biết: một công ty tại Malaysiađặt hàng khoảng 10.000 m2 . Dự kiến lô hàng này sẽ được xuất khẩu qua cảng Cái Lân trong tháng 10 tới.
Trước đây gạch ốp lát clinker được xem như là sản phẩm chỉ dành cho những công trình cao cấp thì nay với xu thế phát triển của thị trường, các nhà đầu tư xây dựng, thậm chí người tiêu dùng ngày càng muốn sử dụng sản phẩm tốt hơn, chất lượng hơn trong việc xây dựng các công trình thương mại và nhà ở dân dụng. Đáp ứng nhu cầu thiết yếu đó, CP VIGLACERA Hạ Long đã đẩy nhanh tiến độ khẩn trương cho ra mắt dòng sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường.
Hiện tại các dòng sản phẩm của Clinker do công ty CP VIGLACERA Hạ Long sản xuất bao gồm: Gạch lát nền Clinker (sử dụng lát nền nhà, lối đi, sân vườn), Gạch Ốp Clinker (sử dụng ốp tường trong và ngoài trời), Gạch lát công cộng Clinker (sử dụng cho các công trình công cộng có mật độ đi lại lớn như Quảng trường, vỉa hè…), Gạch bể bơi Clinker (sử dụng ốp bể bơi bền đẹp và chống trơn trượt), Gạch công nghiệp Clinker (sản phẩm có độ dày cao, siêu bền vững, sử dụng trong các nhà máy sản xuất, phòng thí nghiệm)…
Đặc tính kỹ thuật của Gạch Clinker Viglacera
Độ hút nước
Độ cứng (chống xước)
Chống băng giá
An toàn muối
Độ bền hóa học
Chống trơn trượt
<, = 3%
MOH’s 7
Đạt yêu cầu
Đạt yêu cầu
Đạt yêu cầu
R11
Tính năng vượt trội của Gạch Ốp lát Clinker Viglacera
- Độ rắn chắc và độ bền vững cao nhờ sản phẩm được nung ở chế độ nhiệt cao, bảo đảm sự “kết khối” hoàn toàn trong viên gạch
- Độ hút nước dưới 3% giúp miễn trừ rêu mốc, mục trong quá trình sử dụng.
- Chịu được mọi môi trường cực kỳ khắc nghiệt, từ nơi có nhiệt độ cao nhất trên 45 độ C đến nơi có nhiệt độ thấp nhất dưới 45 độ C, chịu được băng giá, sự thay đổi nhiệt độ đột ngột; chịu được môi trường muối và axit. Hệ số giãn nở ẩm rất thấp, do đó gạch ốp lát Clinker không bị bong tróc.
- Sản phẩm có bề mặt sần tự nhiên, chịu lực tốt nhất, chống trơn trượt do sần hơn trong khi bề mặt vẫn không bị rạn, ngấm bẩn do đã được thủy tinh hóa tốt hơn và cũng giúp sản phẩm dễ lau chùi, làm sạch mà không cần dùng hóa chất
- Chịu được lực uốn lớn hơn bất kì mọi loại gạch thông thường
- Giữ màu sắc sắc tự nhiên ko bị mất màu, mất chất, khả năng chịu mài mòn cao hơn các dòng sản phẩm khác
- Phù hợp cho công trình biệt thự, resort, bể bơi, các công trình vĩnh cửu, không bị tàn phá bởi thời gian…