Chuyên: Lập dự án-Thiết kế-Thẩm định-Giám sát-Thi công Cấp thoát nước-Xử lý môi trường-Xây dựng-Hoàn thiện công trình,...
Thứ Ba, 5 tháng 2, 2013
Thứ Hai, 14 tháng 1, 2013
Tại hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG), giữa Chính phủ Việt Nam và các đối tác phát triển vào trung tuần tháng 12 vừa qua, các đối tác phát triển đã thống nhất “ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển giáo dục và kỹ năng và đảm bảo chính sách đất đai hợp lý là những ưu tiên chính giúp Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thành công”.

Ảnh: Duy Tường
Thảo luận về các nội dung điều chỉnh bổ sung Luật Đất đai của Việt Nam, các đối tác phát triển nhất trí: “Luật Đất đai bổ sung cần tạo ra môi trường thuận lợi cho việc quản lý bền vững về mặt môi trường, các nguồn lực đất đai khan hiếm” và thúc giục: Chính phủ đảm bảo quyền sử dụng đất cho người dân, sử dụng linh hoạt đất nông nghiệp, tăng cường quyền sử dụng đất của các nhóm bị tổn thương như phụ nữ, người nghèo và cộng đồng dân tộc thiểu số. Các đối tác phát triển cũng khuyến nghị thành lập quy trình thu hồi và đền bù đất của Nhà nước bình đẳng và minh bạch hơn và hạn chế những vấn đề nảy sinh trong quá trình thu hồi đất bắt buộc. “Việc nâng cao hiệu quả hệ thống quản lý quy hoạch sử dụng đất trong khuôn khổ quản lý đất đai chung rất cần thiết cho sự phát triển hiệu quả và toàn diện của Việt Nam trong tương lai”, các nhà tài trợ nhận định.
Còn tại hội nghị CG giữa năm, hồi tháng 7, các nhà tài trợ phát triển cho Việt Nam cũng đã cam kết mạnh mẽ cho sự phát triển của Việt Nam với tư cách là nước thu nhập trung bình. Chính phủ và các đối tác phát triển đã thống nhất trong nhận định về những thách thức dài hạn của biến đổi khí hậu và cam kết sẽ cùng hành động để giải quyết những thách thức này. Ông Henning Plate - Tham tán Phát triển, Đại sứ quán CHLB Đức ủng hộ mạnh mẽ việc đưa vấn đề biến đổi khí hậu vào Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2015, cũng như trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của ngành và địa phương.
Mặc dù có thể nhận được nhiều hỗ trợ về tài chính để ứng phó với vấn đề biến đổi khí hậu, song các đối tác phát triển vẫn cho rằng Việt Nam cần thêm nhiều vốn từ nguồn trong nước và tư nhân và kêu gọi Chính phủ cần sử dụng một cách có chiến lược nguồn hỗ trợ tài chính cho việc ứng phó với biến đổi khí hậu. Các bộ, ban ngành, địa phương cần có nguồn hỗ trợ tài chính để nâng cao năng lực, hỗ trợ kỹ thuật và đầu tư.
Trước đó, hồi tháng 4, WB cũng đã công bố báo cáo hỗ trợ kỹ thuật đánh giá đô thị hóa ở Việt Nam với mục đích xác định các xu hướng, cơ hội, thách thức và ưu tiên trọng tâm chính sách phát triển đô thị cho Việt Nam. Theo đó, độ đô thị hóa của Việt Nam đạt 3,4%/năm, đa số tập trung trong và xung quanh TP.HCM và Hà Nội. Tuy nhiên, hệ thống đô thị hiện nay đang hạn chế lợi thế cạnh tranh của chính 2 TP này, đặc biệt là nút thắt hậu cần, chi phí vận chuyển cao bất thường, tắc nghẽn giao thông gia tăng và thị trường đất đai bị bóp méo. Báo cáo đề xuất cần tập trung cải thiện hệ thống giao thông đô thị và cơ sở hạ tầng tại các TP lớn nhất, cũng như tăng cường khả năng cạnh tranh kinh tế của các vùng đô thị này.
Báo cáo lập luận rằng trong khi các dịch vụ cơ bản ở Việt Nam đã được cung cấp tương đối tốt và sự thiếu vắng các khu ổ chuột lớn cho thấy đa số người dân đều có thể tiếp cận với nhà ở, thì cũng có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy điều này đang thay đổi. Phân tích trong báo cáo cho thấy chỉ có 5% dân số thu nhập cao nhất ở Hà Nội và TP.HCM có khả năng chi trả cho nhà đất do các Cty phát triển đô thị cung cấp qua kênh chính thức. Do vậy, Việt Nam cần xử lý sớm hệ thống giá đất kép và sự mập mờ của thị trường nhà đất, cũng như thói quen bán và cho thuê đất để tăng ngân sách địa phương, là những thực tế có thể dẫn tới phát triển đô thị lộn xộn.
Báo cáo kêu gọi các nhà quy hoạch giải quyết các vấn đề giao thông đô thị để nâng cao chất lượng sống và cung cấp thêm nhiều lựa chọn giao thông cho người dân, kể cả người nghèo, trẻ em, người già và người tàn tật. Giải quyết những vấn đề này cũng đồng nghĩa với hiện đại hóa và cải cách hệ thống quy hoạch của Việt Nam, tăng cường quản lý đô thị và đảm bảo phối hợp tốt hơn giữa các cấp chính quyền và giữa các ban ngành của TP.
Bà Victoria Kwakwa - Giám đốc WB tại Việt Nam nhận định: "Quá trình đô thị hóa sẽ là một phần quan trọng trong tương lai của Việt Nam và đảm bảo có TP dễ sống và có khả năng cạnh tranh trong khu vực và trên toàn cầu sẽ là một phần cần thiết trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam."
Riêng tại hội nghị CG vào trung tuần tháng 12, các đối tác phát triển cam kết tài trợ 6.485 triệu USD cho chương trình phát triển của Việt Nam năm 2013.
Thứ Bảy, 29 tháng 12, 2012
Gạch không nung xi măng cốt liệu: Sự lựa chọn bền vững
...
Ông Lê Hoài An, Giám đốc Công ty cổ phần Gạch Khang Minh (bên phải) giới thiệu sản phẩm gạch xi măng cốt liệu mới với Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam
(baodautu.vn) Việc Bộ Xây dựng ban hành Thông tư số 09/2012/TT-BXD ngày 28/11/2012 quy định sử dụng vật liệu xây dựng không nung trong các công trình xây dựng một lần nữa khẳng định quyết tâm của Chính phủ trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành sản xuất vật liệu xây dựng thân thiện với môi trường.
Nguồn nguyên liệu chính để sản xuất gạch đất nung là đất sét từ đất canh tác nông nghiệp, đất bãi bồi ven sông, đất đồi. Trong nhiều năm qua, do bị khai thác tràn lan, thiếu kiểm soát, diện tích đất canh tác bị xâm hại quá lớn, gây sụt giảm nghiêm trọng diện tích trồng cây nông nghiệp, ảnh hưởng đến an ninh lương thực quốc gia. Bên cạnh đó, với tốc độ khai thác đất bãi bồi ven sông như hiện nay, việc sản xuất gạch đã gây ra hệ lụy không nhỏ đối với môi trường ven sông, dẫn tới tình trạng sụt lở đất ven sông, tác động đến an sinh của người dân.
Trong khi đó, khác với gạch đất sét nung, gạch không nung xi măng cốt liệu có nguyên liệu chính là đá mạt, phụ phẩm cuối cùng của các đơn vị khai thác đá, nên hầu hết những địa phương có mỏ đá vôi đều có thể tổ chức, quy hoạch sản xuất gạch xi măng cốt liệu. Nguyên liệu để sản xuất gạch xi măng cốt liệu dồi dào và thuận lợi hơn so với nguồn nguyên liệu để sản xuất gạch đất nung. Đây là một lợi thế rất lớn khiến gạch xi măng cốt liệu có nguồn cung cấp dồi dào, sản phẩm chất lượng cao, giá cả cạnh tranh.
Gạch xi măng cốt liệu Khang Minh của Công ty cổ phần Gạch Khang Minh được sản xuất trên dây chuyền thiết bị hiện đại, sản phẩm được cấu thành từ máy rung ép thủy lực, không gây khói bụi, bảo vệ môi trường. Một yếu tố cần được nhắc đến trong công nghệ sản xuất chính là suất đầu tư. Để vận hành một nhà máy sản xuất gạch đất sét nung bằng công nghệ tuy-nen với tổng công suất khoảng 30 triệu viên/năm, cần ít nhất 30 tỷ đồng. Tuy nhiên, cùng số tiền đầu tư đó, một nhà máy sản xuất gạch xi măng cốt liệu có thể cho công suất 60 triệu viên quy tiêu chuẩn/năm.
Như vậy, có thể dễ dàng nhận thấy, các chỉ tiêu về suất đầu tư, công suất, điều kiện sản xuất của gạch xi măng cốt liệu đều thuận lợi và có tính cạnh tranh cao hơn so với gạch nung. Bên cạnh đó, nhà máy sản xuất gạch xi măng cốt liệu cũng có lợi thế lớn về việc tiết kiệm quỹ đất phát triển.
Ngoài ra, gạch xi măng cốt liệu có ưu thế nổi trội hơn hẳn gạch đất nung về chất lượng và tính ứng dụng của sản phẩm. Cụ thể, gạch xi măng cốt liệu có cường độ chịu lực cao; chống thấm tốt; mẫu mã, kích thước đa dạng; giá cả cạnh tranh, ổn định; sản lượng lớn; giảm thời gian thi công, tiết kiệm chi phí; công cụ, vật tư, thói quen, kỹ thuật thi công đơn giản; dễ dàng trong quản lý và thân thiện với môi trường.
Với nhiều lợi thế cạnh tranh, cùng với định hướng khuyến khích phát triển của Chính phủ, gạch không nung xi măng cốt liệu đang ngày càng trở nên thông dụng, được nhiều chủ đầu tư, nhà thầu và người tiêu dùng tin dùng khi thỏa mãn tốt các yếu tố là sản phẩm văn minh, chất lượng tốt, mẫu mã đa dạng và giá thành rẻ.
Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012
Rác thải, nước thải y tế: Xử lý qua loa, hậu quả nặng nề
Cập nhật lúc09:49, Thứ Ba, 25/12/2012 (GMT+7)
Trên địa bàn thành phố có hơn 1.300 cơ sở y tế, trong đó có 26 bệnh viện các cấp, 224 trạm y tế xã, phường… Lượng rác thải, nước thải phát sinh hằng ngày từ các cơ sở y tế là bao nhiêu; lượng rác thải, nước thải đã được xử lý như thế nào, có đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường? Đây vẫn là những vấn đề chưa có câu trả lời thỏa đáng.
Chấp hành luật chưa nghiêm
Trên địa bàn thành phố mới có 8/26 bệnh viện được đầu tư hệ thống xử lý nước thải y tế. Hầu hết việc xử lý rác thải, nước thải tùy thuộc vào điều kiện kinh phí của từng đơn vị. Do đó, rác thải, nước thải của những cơ sở này được xử lý rất đa dạng. Bệnh viện Đa khoa An Lão hiện có 2 cơ sở, trung bình mỗi ngày bệnh viện này phục vụ 600 bệnh nhân điều trị nội, ngoại trú, thải ra một khối lượng rác, nước thải khá lớn. Thế nhưng, đến nay Bệnh viện An Lão vẫn chưa được đầu tư hệ thống xử lý nước thải, rác thải hiện đại. Việc xử lý rác chủ yếu bằng các biện pháp thủ công như chôn, đốt. Còn nước thải, theo kết quả khảo sát của Công ty cấp nước Hải Phòng, bệnh viện xử lý bằng cách để tự ngấm, tràn ra sông Đa Độ. Bệnh viện Đa khoa An Dương đã được đầu tư xây dựng bể xử lý nước thải với chi phí lên đến hàng trăm triệu đồng, tuy nhiên, thực chất đây chỉ là những bể chứa nước thải. Quy trình xử lý chỉ là dùng hóa chất “bơm” thẳng vào bể, sau khi cho lắng cặn, rồi xả thẳng ra sông Đa Độ. Nước thải từ bệnh viên Giao thông Vận tải đưa vào nguồn nước sông Rế qua kênh Bắc Hưng Hùng.
Thực tế, nhiều cơ sở khám chữa bệnh chưa thực hiện nghiêm việc đánh giá tác động môi trường, chưa xây dựng đề án bảo vệ môi trường, thiếu cam kết bảo vệ môi trường. Rác thải y tế và rác thải sinh hoạt tuy được thu gom, phân loại theo quy trình song chưa hoàn thiện. Có cơ sở khám chữa bệnh có hệ thống xử lý nước thải nhưng chưa được vận hành, xử lý nước thải đúng quy định. Đây là kết luận của lực lượng cảnh sát môi trường qua đợt kiểm tra 59 bệnh viện, phòng khám đa khoa vừa qua. Kết quả này thêm lần nữa cảnh báo những ẩn họa do việc xử lý rác thải y tế chưa đúng cách.
![]() |
Trên địa bàn Hải Phòng rất ít cơ sở y tế có khu xử lý nước thải và rác thải y tế. Trong ảnh: Khu xử lý nước thải của Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp. |
Đe dọa sức khỏe cộng đồng
Theo Quy chế quản lý chất thải y tế (Bộ Y tế) thì chất thải y tế là chất từ các hoạt động khám chữa bệnh, chăm sóc, xét nghiệm, nghiên cứu... trong các cơ sở y tế. Các chất thải rắn y tế nguy hại bao gồm: chất thải lây nhiễm sắc nhọn (bơm kim tiêm, đầu sắc nhọn của dây truyền dịch, lưỡi dao mổ, đinh mổ, cưa, các ống tiêm, mảnh thủy tinh vỡ và các vật sắc nhọn khác), chất thải lây nhiễm không sắc nhọn (bông, băng, gạc); chất thải có nguy cơ lây nhiễm (bệnh phẩm và dụng cụ đựng dính bệnh phẩm); chất thải giải phẫu (các mô, cơ quan, bộ phân cơ thể người, nhau thai, bào thai); chất thải hóa học nguy hại (dược phẩm quá hạn, kém phẩm chất không còn khả năng sử dụng, chất hóa học nguy hại sử dụng trong y tế), chất thải chứa kim loại nặng (thủy ngân từ nhiệt kế, huyết áp kế bị vỡ).
Nước thải bệnh viện ngoài những yếu tố ô nhiễm thông thường như chất hữu cơ, dầu mỡ động thực vật, vi khuẩn thông thường còn có những chất bẩn khoáng và hữu cơ đặc thù như các vi khuẩn gây bệnh, chế phẩm thuốc, chất khử trùng, các dung môi hóa học, dư lượng thuốc kháng sinh, các đồng vị phóng xạ được sử dụng trong quá trình chẩn đoán và điều trị.
Hơn nữa, trong chất thải y tế lại chứa đựng các tác nhân gây bệnh truyền nhiễm như tụ cầu, HIV, viêm gan B. Các tác nhân này có thể thâm nhập vào cơ thể con người qua các vết trầy xước, vết đâm xuyên, qua niêm mạc, qua đường hô hấp (do hít phải), qua đường tiêu hóa (do nuốt hoặc ăn phải). Nước thải bệnh viện còn là nơi "cung cấp" vi khuẩn gây bệnh, nhất là nước thải từ những bệnh viện chuyên về các bệnh truyền nhiễm cũng như trong các khoa lây nhiễm của các bệnh viện. Những nguồn nước thải này là một trong những nhân tố cơ bản có khả năng làm lây lan các bệnh truyền nhiễm thông qua đường tiêu hóa. Đặc biệt nguy hiểm khi nước thải bị nhiễm các vi khuẩn gây bệnh, có thể dẫn đến dịch bệnh cho người và động vật qua nguồn nước khi sử dụng nguồn nước này vào mục đích tưới tiêu, ăn uống... Khi chất thải y tế không được xử lý đúng cách (chôn lấp, thiêu đốt không đúng quy định, tiêu chuẩn) sẽ dẫn đến ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí, và sự ô nhiễm này sẽ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sức khỏe con người, hệ sinh thái. Việc thu gom, phân loại và xử lý các chất thải y tế không bảo đảm đó sẽ gây ảnh hưởng xấu tới sức khỏe cộng đồng và nhất là của những người trực tiếp tiếp xúc với chất thải. Để tránh sự nguy hại của chất thải y tế đối với sức khỏe và môi trường, và bảo vệ những người thường xuyên tiếp xúc với chất thải y tế, ngành y tế cần quan tâm nhiều hơn nữa công tác xử lý chất thải y tế.
Thứ Sáu, 7 tháng 12, 2012
Hợp tác tăng cường năng lực trong lĩnh vực cấp nước, vệ sinh và quản lý CTR giữa Việt Nam và Na Uy
Ngày 7/12, tại Hà Nội đã diễn ra Lễ ký Biên bản ghi nhớ giữa Bộ Xây dựng và Đại sứ quán Vương quốc Na Uy tại Việt Nam về Thỏa thuận dự án “Tăng cường năng lực trong lĩnh vực cấp nước, vệ sinh và quản lý CTR tại Việt Nam thuộc Chương trình tín dụng hỗn hợp giữa Norad-KfW”.

Tham dự Lễ ký kết, về phía Việt Nam có Thứ trưởng Bộ Xây dựng Trần Văn Sơn cùng đại diện lãnh đạo, cán bộ Vụ HTQT, Cục Hạ tầng Kỹ thuật, Vụ Kế hoạch tài chính, Văn phòng Bộ Xây dựng; Hội Cấp thoát nước Việt Nam; Bộ Kế hoạch & Đầu tư... Về phía Na Uy có Tiến sỹ Ragnhild Dybdahl - Đại diện Lâm thời cùng cán bộ chương trình, Đại sứ quán Vương Quốc Na Uy tại Việt Nam.
Thay mặt Bộ Xây dựng, Thứ trưởng Trần Văn Sơn cảm ơn cơ quan hợp tác quốc tế Norad, Chính phủ Na Uy về sự hỗ trợ quý báu đã dành cho ngành Cấp thoát nước và Môi trường (CTN&MT) của Việt Nam. Đồng thời, đánh giá cao sự phối hợp tích cực của các đơn vị trong Bộ Xây dựng và các Bộ ngành liên quan như Bộ KH&ĐT, Tài Chính, Tư pháp... trong quá trình nghiên cứu, thực hiện dự án.
Phát triển ngành CTN&MT là một trong những ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam nhằm cải thiện và nâng cao đời sống của người dân. Trong những năm qua, cùng với những thành tựu về phát triển kinh tế, ngành CTN&MT Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể. Công suất của hệ thống cấp nước đạt 6,4 triệu m3/ngày đêm; công suất khai thác đạt 5,9 triệu m3/ngày đêm. Chất lượng và mạng lưới dịch vụ đã có những cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, với tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, ngành CTN&MT của Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những thách thức lớn như tỷ lệ cấp nước còn thấp; tỷ lệ thất thoát nước cao; chất lượng nước chưa ổn định; nguồn lực đầu tư ngành Nước còn hạn chế; một lượng lớn nước thải và CTR chưa được xử lý vẫn thải ra môi trường gây ô nhiễm nghiêm trọng...

Trước những thực trạng trên, Chính phủ Việt Nam đã và đang tập trung xây dựng định hướng, quy hoạch, kế hoạch để huy động các nguồn lực nhằm giải quyết ô nhiễm môi trường. Với trên 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Na Uy, Chính phủ Na Uy đã có nhiều hỗ trợ Việt Nam trong các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội và môi trường. Một số dự án về hạ tầng kỹ thuật đặc biệt là các dự án ngành nước và môi trường được triển khai bằng nguồn vốn ODA của Na Uy đã in đậm dấu ấn quan hệ hợp tác giữa Na Uy và Việt Nam. Trong khuôn khổ chương trình hợp tác phát triển Việt Nam - Na Uy, Chính phủ Na Uy đã đồng ý với Chính phủ Việt Nam xây dựng triển khai hỗ trợ kỹ thuật của dự án, tăng cường năng lực trong lĩnh vực cấp nước vệ sinh và quản lý CTR tại Việt Nam. Dự án này thuộc chương trình tín dụng hỗn hợp giữa Norad-KfW và cơ quan hợp tác phát triển Norad là đại diện cho Chính phủ Na Uy và Bộ Xây dựng là đại diện cho Chính phủ Việt Nam. Trong suốt thời gian gần 2 năm chuẩn bị dự án, Norad đã cử nhiều đoàn chuyên gia sang làm việc với Bộ Xây dựng để nghiên cứu, chuẩn bị dự án. Sau nhiều nỗ lực, cố gắng của cả hai bên, ngày 27/8/2012, tổ chức Norad đã có thư thông báo chính thức tài trợ không hoàn lại với số tiền khoảng 3 triệu USD. Ngày 4/12/2012, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản phê duyệt danh mục dự án và giao trách nhiệm cho Bộ Xây dựng thẩm định, phê duyệt văn kiện, tổ chức, đảm bảo tiến độ thực hiện dự án...
Nội dung chính của dự án là tăng cường năng lực cho 3 cấp chính quyền Trung ương, địa phương; các công ty CTN&MT đô thị; các ban quản lý dự án liên quan đến xây dựng các dự án của Ngành nhằm đảm bảo tính bền vững về hoạt động tài chính, kỹ thuật và lợi ích hoạt động của các công trình cấp thoát nước và Cty môi trường tại 12 đô thị. Với các mục tiêu và sản phẩm cụ thể của dự án, Thứ trưởng tin tưởng, dự án sẽ góp phần nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ từ cấp trung ương tới địa phương trong cấp nước, vệ sinh và quản lý CTR. Kết quả của dự án sẽ làm minh chứng cụ thể cho quan hệ hợp tác phát triển hiệu quả giữa hai chính phủ Việt Nam và Na Uy...
Tiến sỹ Ragnhild Dybdahl - Đại diện Lâm thời, Đại sứ quán Vương Quốc Na Uy tại Việt Nam bày tỏ vui mừng thay mặt cho cơ quan hợp tác quốc tế của Na Uy cùng với Thứ trưởng ký kết biên bản ghi nhớ dự án tăng cường năng lực trong lĩnh vực cấp nước, vệ sinh và quản lý CTR tại Việt Nam thuộc Chương trình tín dụng hỗn hợp giữa Norad-KfW.
Đây là dự án cuối cùng trong số các dự án chính mà Chính phủ Na Uy cung cấp cho Việt Nam theo hiệp định 2003 và chương trình tín dụng hỗn hợp không kèm theo các điều khoản ràng buộc. Na Uy đã ký nhiều hiệp định về hỗ trợ cho các dự án cấp nước sạch và XLNT cũng như quản lý CTR ở rất nhiều khu vực của Việt Nam. Tất cả 12 dự án đều nhận được các khoản viện trợ không hoàn lại từ Chính phủ Na Uy trong giai đoạn là 10 năm. Bà Ragnhild Dybdahl cho rằng, vai trò của dự án rất quan trọng để cải thiện tính bền vững trong thực hiện hiệu quả của các dự án. Đồng thời hy vọng, trên cơ sở mối quan hệ bạn bè sâu đậm, quan hệ tác hữu nghị ngoại giao trên 40 năm giữa hai chính phủ Việt Nam và Na Uy, sự hợp tác sẽ còn tiếp tục được tăng cường hơn nữa trong lĩnh vực hợp tác quốc tế cũng như thương mại, không chỉ trong lĩnh vực CTN và quản lý CTR...
Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2012
Theo thống kê trên cả nước hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp, nhà máy đều có hệ thống XLNT. Tuy nhiên, vấn đề mấu chốt ở đây là đa số các hệ thống XLNT của các nhà máy đều không xử lý đạt. Chưa kể những giải pháp công nghệ XLNT tiên tiến của Nhật, Mỹ đã và đang được ứng dụng đạt hiệu quả không cao do không phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam. Mới đây, thêm một giải pháp XLNT theo công nghệ của Đức vừa được giới thiệu tại Việt Nam sẽ là kinh nghiệm giúp cho các nhà máy có thể lựa chọn những công nghệ và giải pháp thích hợp nhất cho mình trong việc XLNT. Đó là công nghệ XLNT dòng chảy nhỏ giọt ( Trickle Flow Response - TFR) của Tập đoàn DAS Environmental Expert GmbH (DAS).

Nhà máy chế biến phô mai Bel Việt Nam, thuộc Tập đoàn Group Bel (Pháp) ứng dụng lắp đặt hệ thống XLNT TFR của DAS
TFR là công nghệ được phát triển từ bồn phản ứng sinh học dòng chảy nhỏ giọt (DCNG), sử dụng hạt vật liệu mang rất nhẹ được bao phủ bởi một lớp vi sinh vật hoạt tính cao, cho phép XLNT đến một mức nhất định rồi xả trực tiếp vào nguồn nước hoặc tái sử dụng cho quá trình sản xuất, cung cấp một hệ thống ổn định quá trình thông khí liên tục với mức tiêu thụ năng lượng thấp hơn rất nhiều lần so với các công nghệ thông thường hiện nay phổ biến tại Việt Nam. Không giống như các hệ thống XLNT thông thường, các vật liệu mang không hoàn toàn ngập trong nước và do đó vi sinh vật có thể dễ dàng được cung cấp đủ lượng ôxy. Dòng nước thải chảy nhỏ giọt liên tục từ trên xuống được làm thoáng bằng không khí theo hướng ngược lại bởi một quạt gió nhỏ gọn vận hành với áp lực rất thấp.
Theo nguyên tắc hoạt động, tại bước đầu tiên của quy trình XLNT, chất rắn được tách ra khỏi dòng nước bởi thiết bị lược rác cơ học. Để lưu lượng nước thải đồng nhất, nước thải được thu gom trong một bể chứa gọi là bể điều hòa. Từ đây, nước thải được đưa vào phần cốt lõi của hệ thống là các phản ứng sinh học TFR vận hành trên nguyên lý độc quyền: Sử dụng vật liệu mang dạng hạt rất nhẹ có kích thước nhỏ bao phủ bởi các vi sinh vật hoạt tính cao có khả năng thích ứng với môi trường tương ứng. Dòng nước thải liên tục chảy nhỏ giọt xuống lớp đệm vật liệu mang được làm thoáng bằng không khí cung cấp từ một quạt gió thổi theo hướng ngược lại. Quá trình sinh học hiếu khí phân hủy tải lượng hữu cơ và các thành phần chứa nitơ. Sau đó, xử lý sinh học kết hợp với xử lý hóa lý loại bỏ phốt pho nếu cần thiết, bùn dư tạo ra được loại và thải bỏ theo quy định. Nước sau xử lý được khử trùng và xả vào nguồn tiếp nhận.
Tiến sĩ Horst Reichardt - GĐ điều hành của DAS, công nghệ này không chỉ đặc trưng bởi việc tiêu thụ ít năng lượng, chi phí vận hành thấp, mà việc bảo trì cũng không tốn kém cũng như có thể dễ dàng mở rộng hệ thống. Cấu trúc mô-đun cho phép dễ dàng mở rộng và nâng cấp bất kỳ lúc nào. Bằng cách đáp ứng tất cả yêu cầu xả trực tiếp trong khi vẫn giữ những yêu cầu vận hành và bảo dưỡng ở mức tối thiểu, công nghệ TFR cung cấp một quy trình hiện đại để xử lý từng phần hoặc toàn bộ nước thải công nghiệp. Chất lượng nước thải sau xử lý có thể đáp ứng các yêu cầu cho việc tái sử dụng. Các doanh nghiệp quy mô vừa và lớn hơn có thể đáp ứng các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường cũng như tiết kiệm năng lượng, đồng thời vẫn duy trì được chi phí xử lý thấp. Sau công nghệ XLNT cho các nhà máy, công ty cũng đã phát triển các quy trình và giải pháp cho vấn đề XLNT công nghiệp và đô thị.
Nói về hiệu quả của công nghệ TFR, ông Francois Pons - GĐ Nhà máy Bel Việt Nam, Cty TNHH Bel Việt Nam (Chi nhánh của Tập đoàn Bel của Pháp chuyên sản xuất và cung cấp các nhãn hiệu phô mai Con bò cười, Kiri, BabyBel...) cho biết, chúng tôi đã ứng dụng công nghệ TFR để XLNT cho nhà máy sản xuất phô mai tại Bình Dương và rất hài lòng với hiệu suất hoạt động vượt trội của hệ thống, đặc biệt, giảm thiểu tối đa lượng bùn và mùi hôi rất hiệu quả. Điều này thực sự an toàn đối với sức khỏe của nhân viên cũng như môi trường xung quanh.
Hiện nay, tình trạng ô nhiễm môi trường nước đang diễn ra ngày càng phức tạp. Để phát triển bền vững, việc sử dụng những công nghệ XLNT thân thiện với môi trường, giảm phế thải độc hại và tăng cường khả năng tái chế; đầu tư công nghệ mới, sử dụng năng lượng hợp lý... là xu hướng các doanh nghiệp đang hướng tới. Theo một số chuyên gia ngành Nước, với chi phí vận hành thấp, tiết kiệm năng lượng, XLNT triệt để..., công nghệ dòng chảy nhỏ giọtTFR hứa hẹn sẽ là một công nghệ xanh, thông minh nằm trong danh sách lựa chọn hàng đầu ứng dụng tại các nhà máy, xí nghiệp thời gian tới.
Thứ Năm, 29 tháng 11, 2012
hát hiện nguồn nước ngầm lớn tại Hà Nội:

Các chuyên gia khoan thăm dò nguồn nước ngầm Neogen tại Hà Nội.Ảnh: Ngọc Thanh
Giải bài toán thiếu nguồn nước sạch
Trong khi nguồn nước ngầm ở Hà Nội đang bị ô nhiễm và dần cạn kiệt, thì
mới đây, các chuyên gia của Liên đoàn Quy hoạch & Điều tra tài
nguyên nước miền Bắc (Bộ TN&MT) đã phát hiện ra tầng nước ngầm mới
dưới lòng đất ở Hà Nội, có trữ lượng rất lớn và chất lượng tốt. Nguồn
nước này có thể "giải khát" cho nhiều khu vực đang thiếu nước sạch sinh
hoạt trên địa bàn Thủ đô.
Ô nhiễm cả hai tầng
Theo số liệu của Sở TN&MT Hà Nội, hiện tổng mức khai thác nước ngầm
của toàn TP Hà Nội vào khoảng 700.000m3/ngày đêm, với hơn 170.000 giếng
khai thác. Dự báo, đến năm 2020, mức khai thác sẽ tăng gấp đôi, lên mức
1,4 triệu m3/ngày đêm.

Các chuyên gia khoan thăm dò nguồn nước ngầm Neogen tại Hà Nội.Ảnh: Ngọc Thanh
Để đánh giá chất lượng nguồn nước ngầm, Sở TN&MT Hà Nội đã khảo sát
tại các giếng khoan khai thác nước quy mô công nghiệp và giếng khoan
khai thác nước nhỏ lẻ, trong đó có giếng khoan Unicef của các hộ gia
đình. Kết quả kiểm tra, phân tích các mẫu nước cho thấy, các giếng khoan
hoạt động liên tục không những hút cạn nước ngầm ở cả 2 tầng sát mặt
đất (là Holocen và Pleistocen), mà còn gây ô nhiễm nghiêm trọng cho các
tầng nước này. Trầm trọng hơn, diện tích nguồn nước ngầm bị ô nhiễm đang
có dấu hiệu lan rộng. Hàng loạt chỉ tiêu quan trọng đều cao hơn giới
hạn cho phép, trong đó, hàm lượng amoni, asen và hữu cơ đều cao. Nếu kéo
dài tình trạng này, nước ngầm ở Hà Nội sẽ dần cạn kiệt và không còn sử
dụng được.
Kết quả quan trắc của Trung tâm Quan trắc & Dự báo Tài nguyên nước
(Bộ TN&MT) cũng khẳng định, mực nước ngầm tại Hà Nội đang bị sụt
giảm mạnh, chất lượng nước ở nhiều nơi không đạt tiêu chuẩn. Cụ thể,
nước ngầm ở khu vực Mai Dịch (quận Cầu Giấy) có hàm lượng amoni cao hơn
tiêu chuẩn cho phép nhiều lần. Ở Tân Lập (huyện Đan Phượng), hàm lượng
amoni cao gấp 233 lần tiêu chuẩn cho phép; hàm lượng mangan, asen đều
vượt tiêu chuẩn.
Phát hiện nguồn nước quý, khai thác giá rẻ
Trong khi tình trạng nguồn nước ngầm ở Hà Nội bị khai thác quá mức và
dần cạn kiệt, việc phát hiện tầng nước ngầm thứ 3 (Neogen) dưới lòng đất
là vô cùng quý giá. Trao đổi với phóng viên Báo Kinh tế & Đô thị,
TS Tống Ngọc Thanh, Liên đoàn trưởng Liên đoàn Quy hoạch & Điều tra
tài nguyên nước miền Bắc cho biết: Khoảng 10 năm trở lại đây, các chuyên
gia của liên đoàn đã điều tra, nghiên cứu và mới đây đã hoàn thành đề
án Điều tra, đánh giá nguồn nước dưới đất tầng Neogen vùng TP Hà Nội.
"Tầng nước này có thể khai thác để sử dụng cho ăn uống, sinh hoạt hoặc
các ngành sản xuất công nghiệp đòi hỏi chất lượng nước tốt như dệt may,
điện tử. Còn nguồn nước khoáng ấm có thể khai thác để phát triển du
lịch. Bên cạnh đó, việc đầu tư chi phí, xử lý, khai thác nguồn nước ngầm
này sẽ rẻ hơn rất nhiều so với khai thác nước mặt. Lợi ích về lâu dài
là rất rõ, bởi ưu thế về chất lượng và trữ lượng của nguồn nước, có thể
khai thác ổn định, lâu dài. Nếu khai thác nguồn nước này sử dụng cho
sinh hoạt, giá thành sẽ rẻ hơn gần một nửa so với giá nước phải chi trả
hiện nay" - ông Thanh tính toán.
Hiện nay, một số nơi như Định Công, Linh Đàm, Pháp Vân (quận Hoàng
Mai), tầng nước Neogen đã được khai thác phục vụ người dân sử dụng và
được đánh giá có chất lượng tốt nhất nội đô Hà Nội. Với nguy cơ nguồn
nước ngầm bị ô nhiễm và cạn kiệt, thì việc phát hiện nguồn nước ngầm
dưới đất tầng Neogen có thể "giải khát" cho nhiều khu vực đang thiếu
nước sạch sinh hoạt trên địa bàn Thủ đô.
Theo kết quả điều tra, tầng chứa nước Neogen phía Nam Hà Nội có độ
sâu từ mặt đất xuống khoảng 60 - 110m, nhiều vùng rất giàu nước và chất
lượng nước tốt, hàm lượng sắt ít, các yếu tố vi sinh, vi lượng đều dưới
mức cho phép. Đề án đã xác định được các vùng có triển vọng khai thác
nước lớn trong tầng chứa nước hệ tầng Vĩnh Bảo và đánh giá được trữ
lượng nước dưới lòng đất của các trầm tích hệ tầng Vĩnh Bảo lên tới
1.642.925m3/ngày.Thứ Ba, 27 tháng 11, 2012
Tuyển kỹ sư xây dựng, cấp thoát nước
Công ty Cổ phần tư vấn xây dựng và chuyển giao công nghệ môi trường ENVICO
cần tuyển kỹ sư xây dựng, cấp thoát nước là các công việc:
+ Thiết kế công trình cấp thoát nước, xử lý nước thải,...
+ Giám sát công trường, tổ chức thi công
+ Làm hồ sơ thầu, hoàn công,...
Liên hệ: 0989.583.699
Công ty Cổ phần tư vấn xây dựng và chuyển giao công nghệ môi trường ENVICO
cần tuyển kỹ sư xây dựng, cấp thoát nước là các công việc:
+ Thiết kế công trình cấp thoát nước, xử lý nước thải,...
+ Giám sát công trường, tổ chức thi công
+ Làm hồ sơ thầu, hoàn công,...
Liên hệ: 0989.583.699
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)