Thứ Ba, 19 tháng 2, 2013


Vụ Quản lý hoạt động xây dựng: Nâng cao chất lượng trong soạn thảo, ban hành văn bản

18/02/2013 12:51
Năm 2012 tiếp tục đánh dấu những thành công đáng ghi nhận của Vụ Quản lý hoạt động xây dựng trong công tác tham mưu cho lãnh đạo Bộ soạn thảo, ban hành một số văn bản pháp luật, góp phần đáng kể vào công tác quản lý Nhà nước của Bộ Xây dựng. Phóng viên Báo Xây dựng đã có cuộc trao đổi với ông Bùi Trung Dung – Vụ trưởng Vụ Quản lý hoạt động xây dựng xung quanh vấn đề này.

Ông Bùi Trung Dung – Vụ Trưởng Vụ Quản lý hoạt động xây dựng, Bộ Xây dựng
Xin ông cho biết những kết quả mà Vụ Quản lý hoạt động xây dựng đã đạt được trong năm 2012.
Ông Bùi Trung Dung:Năm 2012 với chức năng của mình, Vụ QLHĐXD đã tập trung rà soát nghiên cứu, soạn thảo một số văn bản quy phạm pháp luật phục vụ cho công tác quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng.
Trước hết, phải kể đến việc soạn thảo để Bộ trình Chính phủ ban hành NĐ 64/2012/NĐ-CP về cấp GPXD; trình Bộ Thông tư số 10/2012/TT-BXD hướng dẫn NĐ 64 và hiện nay đang hoàn thiện trình Bộ Xây dựng và Bộ Tài nguyên & Môi trường ký Thông tư liên tịch giữa 2 Bộ hướng dẫn về các loại giấy tờ về Quyền sử dụng đất để cấp GPXD.
Đây là lần đầu tiên Chính phủ ban hành một Nghị định riêng biệt về cấp GPXD. Cùng với việc soạn thảo và ban hành Nghị định về GPXD, Vụ cũng đã soạn thảo trình Thủ tuớng ký ban hành Quyết định số 03/2012/QĐ-TTg về sửa đổi một số điều của QĐ 87 ban hành Quy chế quản lý hoạt động của nhà thầu nước ngoài trong lĩnh vực xây dựng tại Việt Nam nhằm cải cách thủ tục hành chính, quy định rõ các loại giấy tờ cần thiết và quy trình cấp giấy phép thầu.
Việc soạn thảo, ban hành những văn bản quy phạm pháp luật đã gặp phải những khó khăn như thế nào thưa ông?
Ông Bùi Trung Dung: Riêng lĩnh vực pháp luật về xây dựng thì liên quan đến nhiều lĩnh vực khác như: Đất đai, môi trường, phòng cháy chữa cháy, những quy định về quảng cáo... cho nên trong quá trình soạn thảo cũng cần phải nghiên cứu tất cả những Luật có liên quan sao cho đồng bộ, thống nhất. Từ đó phải rà soát, lấy ý kiến của các Bộ, ngành có liên quan cho nên đã nảy sinh những khó khăn nhất định như: thời gian bị kéo dài; một số nội dung mà ngành xây dựng cần quản lý thì lại vướng những Luật khác đã quy định nên chưa đồng bộ; hệ thống tổ chức quản lý xây dựng từ Trung ương đến địa phương chưa được hoàn thiện, năng lực quản lý ở mỗi địa phương cũng có sự chênh lệch... cho nên mỗi văn bản pháp luật ra để khả thi thì cũng còn là một vấn đề cần phải xem xét toàn diện.
Hiện nay, theo khoán hành chính cho nên việc hướng dẫn thực hiện cũng có nhiều khó khăn. Việc kiểm tra thực hiện pháp luật để xem xét các tổ chức, cá nhân có thực hiện đúng theo pháp luật không... Xem xét những vấn đề chưa đi vào thực tiễn để có thể điều chỉnh kịp thời. Đòi hỏi phải có kinh phí thực hiện việc kiểm tra, thanh tra, đi khảo sát. Vì vậy, tiếp tục xem xét để có những nguồn kinh phí để thực hiện việc thanh tra, kiểm tra các tổ chức, cá nhân thực hiện pháp luật.
Năm 2013 hứa hẹn nhiều khó khăn, ông nhận định như thế nào về những nhiệm vụ quan trọng của Vụ trong thời gian tới.
Ông Bùi Trung Dung: Trước hết Vụ Quản lý hoạt động xây dựng năm 2013 được Bộ giao nhiệm vụ nghiên cứu rà soát, sửa đổi Luật Xây dựng. Sau khi ban hành Luật Xây dựng thì có một loạt Luật được ban hành như: Luật Nhà ở, Luật kinh doanh bất động sản, Luật quy hoạch đô thị, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu...Tất cả những hoạt động xây dựng đều liên quan đến những Luật này. Để đảm bảo sao cho thống nhất đồng bộ với các Luật khác thì Luật Xây dựng cần phải rà soát điều chỉnh sao cho đồng bộ thống nhất với các Luật được ban hành sau đó.
Trong Luật Xây dựng, việc quy định quản lý chung cho tất cả nguồn vốn, bao gồm cả nguồn vốn ngân sách Nhà nước, trong đó nguồn vốn Nhà nước chưa được phân định rõ. Cho nên việc quản lý đối với dự án sử dụng vốn Nhà nước cũng chưa chặt chẽ, dẫn đến nhiều dự án chưa hiệu quả, chất lượng chưa đảm bảo, tiến độ kéo dài... Trong Luật Xây dựng sửa đổi cần phải xác định rõ năng lực, vai chủ đầu tư đối với dự án sử dụng vốn Nhà nước.

Năm 2012, Bộ Xây dựng và các Sở Xây dựng đã tham gia ý kiến về thiết kế cơ sở cho khoảng 3.000 dự án.
Việc tiền kiểm trong quá trình thẩm định các bước thiết kế để đảm bảo an toàn đối với các dự án sử dụng mọi nguồn vốn, đặc biệt là các công trình có quy mô lớn khi xảy ra sự cố xảy ra hiểm họa không lường hết được. Thì cần phải có vai trò quản lý, thẩm tra, thẩm định của cơ quan Nhà nước.
Đồng thời năng lực của các tổ chức, cá nhân hoạt động xây dựng trong thời gian vừa qua không có sự kiểm soát cho nên tình trạng các nhà thầu, cũng như các cá nhân hoạt động xây dựng, năng lực chưa đảm bảo. Sắp tới trong Luật Xây dựng sửa đổi cũng cần phải quy định cụ thể và chi tiết hơn để đảm bảo nâng cao năng lực hoạt động xây dựng nhằm đảm bảo các dự án, các công trình đạt hiệu quả chất lượng cũng như đảm bảo đủ sức cạnh tranh với các nhà thầu nước ngoài.
Một vấn đề nữa là việc điều chỉnh dự án cũng đang vướng mắc dẫn tới nợ đọng trong đầu tư xây dựng mới. Cho nên trong Luật Xây dựng cần phải đề cập tới việc điều chỉnh dự án khi có những biến động bất thường về cơ chế chính sách, giá...đảm bảo các dự án đủ vốn để hoàn thành công trình.
Cùng với việc nghiên cứu, soạn thảo sửa đổi Luật Xây dựng thì sẽ phải nghiên cứu các nghị định và thông tư có liên quan. Như các Nghị định quản lý các dự án, Nghị định quản lý chất lượng công trình... Trong chương trình xây dựng văn bản pháp luật của Quốc hội thì yêu cầu phải trình Quốc hội trong kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa 13 về thời gian cũng tương đối gấp đòi hỏi phải khẩn trương thực hiện việc này.
Vụ cũng đã được Bộ giao cho triển khai thực hiện Đề án Tin học hóa trong cấp phép xây dựng. Đây là một đề án tương đối lớn, thực hiện việc cải cách hành chính trong công tác cấp giấy phép xây dựng.
Để thực hiện những chức năng, nhiệm vụ mà Bộ giao, đồng thời nâng cao tính chủ động giải quyết một số công việc sự vụ. Vụ cũng đã xây dựng Đề án chuyển đổi từ Vụ Quản lý hoạt động xây dựng thành Cục Quản lý hoạt động xây dựng. Do vậy, năm 2013 cũng cần phải khẩn trương để ổn định tổ chức, thiết lập các phòng, các đơn vị chức năng, để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ mà Bộ giao cho.
Từ nhiều năm nay, việc đánh giá xếp hạng năng lực nhà thầu chưa được quan tâm đúng mức. Được biết, Vụ đang tiến hành soạn thảo Thông tư hướng dẫn đăng ký thông tin và đánh giá nhà thầu, ông có thể trao đổi một vài điểm nổi bật của Thông tư này?
Ông Bùi Trung Dung: Trong thời gian vừa qua, việc kiểm soát năng lực của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động xây dựng chưa được chặt chẽ. Do cơ chế Nhà nước chỉ quy định điều kiện năng lực, còn các tổ chức tự xếp hạng và chủ đầu tư đánh giá năng lực của tổ chức, cá nhân thực hiện những công trình cụ thể. Cho nên việc kiểm soát năng lực của các nhà thầu là chưa đạt hiệu quả.
Để tăng cường năng lực hoạt động xây dựng của các tổ chức, cá nhân cũng như công khai minh bạch năng lực của các nhà thầu thì Vụ đang tiến hành soạn thảo Thông tư hướng dẫn đăng ký và đánh giá nhà thầu.
Nội dung của Thông tư này là đưa ra các tiêu chí để chủ đầu tư và có sự tham gia của cơ quan Nhà nước đánh giá mức độ hoàn thành của nhà thầu đối với từng gói thầu, từng công trình. Nhà nước không xếp hạng năng lực mà việc này do chủ đầu tư đánh giá sự đáp ứng năng lực của nhà thầu theo yêu cầu của từng công trình.
Việc yêu cầu công khai thông tin trên trang thông tin điện tử là bắt buộc đối với các nhà thầu, tham dự thầu các công trình có sử dụng vốn Nhà nước. Hy vọng quy định này sẽ là cơ sở để cho các cơ quan, tổ chức giám sát việc lựa chọn nhà thầu của chủ đầu tư theo đúng quy định pháp luật. Để lựa chọn nhà thầu đủ năng lực thực hiện công trình đảm bảo chất lượng, tiến độ hiệu quả của dự án.
Để phục vụ cho công tác đánh giá nhà thầu, Vụ Quản lý hoạt động xây dựng đang đề xuất với Bộ cho phép thành lập Hiệp hội Quản lý dự án đầu tư xây dựng. Đây là tổ chức góp phần thực hiện công tác đánh giá việc thực hiện của các nhà thầu đối với từng công trình.
Trân trọng cảm ơn ông!

Người dân còn e ngại với gạch không nung

19/02/2013 14:35
Những năm gần đây, ngành sản xuất vật liệu xây của tỉnh Hải Dương có bước phát triển khá nhanh, tập trung vào hai loại sản phẩm chính là gạch đất sét nung và gạch không nung. Sản phẩm vật liệu xây cơ bản đáp ứng được yêu cầu xây dựng trong tỉnh và một phần cung cấp cho thị trường các tỉnh lân cận. Hiện tại, sản lượng vật liệu xây của tỉnh đạt khoảng 1,2 tỷ viên tiêu chuẩn mỗi năm. Trong đó, sản lượng gạch không nung chỉ chiếm khoảng 18%.

Sản xuất gạch không nung tại Hải Dương
Sản lượng gạch không nung trong thời gian qua luôn chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu sản xuất vật liệu xây dựng. Toàn tỉnh Hải Dương hiện có trên 500 hộ sản xuất gạch không nung với sản lượng khoảng 45 triệu viên, tương đương 125 triệu viên tiêu chuẩn. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp cũng đã đầu tư xây dựng nhà máy gạch không nung trên địa bàn tỉnh. Ngoài Cty CP Đoàn Minh Công (Tứ Kỳ) đã xây dựng và đưa sản phẩm ra thị trường khoảng 150 triệu viên tiêu chuẩn/năm, Cty CP sông Đà – Cao Cường (TX Chí Linh) cũng đang đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất với công nghệ hiện đại và công suất lên tới 80 triệu viên/năm. Theo đánh giá của các chuyên gia xây dựng, Hải Dương là một trong những địa phương có tỷ lệ sử dụng gạch không nung cao nhất so với mặt bằng chung của cả nước.
Sản xuất gạch không nung trên địa bàn tỉnh Hải Dương có hai khu vực: khu vực đơn lẻ của tư nhân ở tất cả các huyện, thị xã, thành phố và khu vực của các nhà máy với dây chuyền và công nghệ hiện đại. Sản phẩm của những hộ sản xuất đơn lẻ ở các địa phương trong tỉnh thường có công nghệ lạc hậu, phần nhiều được làm bằng tay hoặc hệ thống máy móc đơn giản, lạc hậu. Vì thế, chất lượng sản phẩm thấp, mẫu mã đơn giản không thu hút được sự chú ý của người tiêu dùng. Thời gian gần đây, một số cơ sở cũng đã đầu tư máy móc với công nghệ hiện đại, nhưng số lượng còn ít so với tổng số hộ sản xuất trong cả tỉnh. Bên cạnh đó là sự xuất hiện của các nhà máy sản xuất gạch không nung với công nghệ sản xuất hiện đại được nhập khẩu từ nước ngoài. Nguyên liệu chủ yếu để sản xuất gạch không nung của các dây chuyền này là cát đá, xi-măng, tro bay, xỉ than của các nhà máy nhiệt điện cùng các chất phụ gia khác. Sản phẩm của các nhà máy thường phong phú, đa dạng như gạch xây 4 lỗ, gạch xây 3 lỗ, gạch xây đặc, gạch đặc chèn, gạch đặc nhẹ... với nhiều ưu điểm như không độc hại, không gây ô nhiễm môi trường, bề mặt phẳng, kích thước đồng đều, tiết kiệm vữa xây, chi phí đầu tư giảm...
Mặc dù có rất nhiều ưu điểm, nhưng sản phẩm gạch không nung vẫn chưa tìm được chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Anh Trần Văn Thuận, chủ doanh nghiệp tư nhân Huy Thuận, thị trấn Tứ Kỳ (Tứ Kỳ) cho rằng: “Mặc dù gạch không nung có chất lượng không thua kém so với gạch tuy – nen, nhưng việc tiêu thụ vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Hiện tại, người dân chủ yếu dùng gạch không nung để xây dựng các công trình phụ, chuồng trại, tường rào, bó bờ ao... Rất ít người sử dụng gạch không nung để xây nhà”. Nguyên nhân của vấn đề này, theo ông Phùng Văn Đường, PGĐ Cty CP Đoàn Minh Công cho rằng: “Yếu tố tâm lý và thói quen quyết định đến sự lựa chọn của người dân. Họ đã quá quen với sự hiện diện của gạch nung từ nhiều năm nay. Vì thế, để họ chuyển sang sử dụng gạch không nung là một chặng đường dài và rất gian khó. Hiện tại, với công suất 150 triệu viên/năm, sản phẩm của chúng tôi chủ yếu cung cấp cho các dự án lớn ở Hà Nội và Hải Phòng. Đi vào sản xuất từ năm 2007, nhưng các năm qua chúng tôi cũng chỉ cung cấp cho thị trường Hải Dương đầy tiềm năng khoảng 30% tổng sản phẩm, tập trung chủ yếu ở lĩnh vực xây dựng nhà ở dân sinh”. Cùng với quan điểm này, anh Tuấn cho biết: “Cơ sở của tôi đi tiên phong trong lĩnh vực sản xuất gạch không nung trên địa bàn huyện Tứ Kỳ. Ra đời năm 2006, năm đầu tiên cơ sở chỉ sản xuất khoảng 30 vạn viên. Nhưng đến nay, cơ sở đã cung cấp ra thị trường trên 350 vạn viên. Người dân chủ yếu dùng để xây dựng tường rào, bó bờ ao hoặc xây các công trình phụ. Hầu như chưa có ai sử dụng để xây nhà kiên cố, cao tầng. Người dân vẫn còn e ngại về chất lượng của sản phẩm. Họ chưa thực sự an tâm khi dùng gạch không nung để xây nhà - tài sản cả đời tích cóp của họ”.
Để gạch không nung trở thành sự lựa chọn hàng đầu của người dân, ông Phùng Văn Đường, PGĐ Cty Đoàn Minh Công cho rằng công tác tuyên truyền, vận động được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu. Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với sự phát triển gạch không nung cần cụ thể và sát thực hơn nữa như tạo điều kiện về vốn, mặt bằng và có chế tài cứng rắn trong việc xoá bỏ các cơ sở sản xuất gạch nung không đủ tiêu chuẩn kỹ thuật. Đồng thời, chính các doanh nghiệp sản xuất, nhất là các cơ sở sản xuất nhỏ ở địa phương cần thường xuyên cập nhật các thông tin về sản phẩm, công nghệ và thị trường gạch không nung.

Thứ Ba, 5 tháng 2, 2013

Thứ Hai, 14 tháng 1, 2013


Nhà tài trợ nước ngoài quan tâm đến phát triển đô thị ở Việt Nam

27/12/2012 15:00
Tại hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG), giữa Chính phủ Việt Nam và các đối tác phát triển vào trung tuần tháng 12 vừa qua, các đối tác phát triển đã thống nhất “ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển giáo dục và kỹ năng và đảm bảo chính sách đất đai hợp lý là những ưu tiên chính giúp Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thành công”.

Ảnh: Duy Tường
Thảo luận về các nội dung điều chỉnh bổ sung Luật Đất đai của Việt Nam, các đối tác phát triển nhất trí: “Luật Đất đai bổ sung cần tạo ra môi trường thuận lợi cho việc quản lý bền vững về mặt môi trường, các nguồn lực đất đai khan hiếm” và thúc giục: Chính phủ đảm bảo quyền sử dụng đất cho người dân, sử dụng linh hoạt đất nông nghiệp, tăng cường quyền sử dụng đất của các nhóm bị tổn thương như phụ nữ, người nghèo và cộng đồng dân tộc thiểu số. Các đối tác phát triển cũng khuyến nghị thành lập quy trình thu hồi và đền bù đất của Nhà nước bình đẳng và minh bạch hơn và hạn chế những vấn đề nảy sinh trong quá trình thu hồi đất bắt buộc. “Việc nâng cao hiệu quả hệ thống quản lý quy hoạch sử dụng đất trong khuôn khổ quản lý đất đai chung rất cần thiết cho sự phát triển hiệu quả và toàn diện của Việt Nam trong tương lai”, các nhà tài trợ nhận định.
Còn tại hội nghị CG giữa năm, hồi tháng 7, các nhà tài trợ phát triển cho Việt Nam cũng đã cam kết mạnh mẽ cho sự phát triển của Việt Nam với tư cách là nước thu nhập trung bình. Chính phủ và các đối tác phát triển đã thống nhất trong nhận định về những thách thức dài hạn của biến đổi khí hậu và cam kết sẽ cùng hành động để giải quyết những thách thức này. Ông Henning Plate - Tham tán Phát triển, Đại sứ quán CHLB Đức ủng hộ mạnh mẽ việc đưa vấn đề biến đổi khí hậu vào Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2015, cũng như trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của ngành và địa phương.
Mặc dù có thể nhận được nhiều hỗ trợ về tài chính để ứng phó với vấn đề biến đổi khí hậu, song các đối tác phát triển vẫn cho rằng Việt Nam cần thêm nhiều vốn từ nguồn trong nước và tư nhân và kêu gọi Chính phủ cần sử dụng một cách có chiến lược nguồn hỗ trợ tài chính cho việc ứng phó với biến đổi khí hậu. Các bộ, ban ngành, địa phương cần có nguồn hỗ trợ tài chính để nâng cao năng lực, hỗ trợ kỹ thuật và đầu tư.
Trước đó, hồi tháng 4, WB cũng đã công bố báo cáo hỗ trợ kỹ thuật đánh giá đô thị hóa ở Việt Nam với mục đích xác định các xu hướng, cơ hội, thách thức và ưu tiên trọng tâm chính sách phát triển đô thị cho Việt Nam. Theo đó, độ đô thị hóa của Việt Nam đạt 3,4%/năm, đa số tập trung trong và xung quanh TP.HCM và Hà Nội. Tuy nhiên, hệ thống đô thị hiện nay đang hạn chế lợi thế cạnh tranh của chính 2 TP này, đặc biệt là nút thắt hậu cần, chi phí vận chuyển cao bất thường, tắc nghẽn giao thông gia tăng và thị trường đất đai bị bóp méo. Báo cáo đề xuất cần tập trung cải thiện hệ thống giao thông đô thị và cơ sở hạ tầng tại các TP lớn nhất, cũng như tăng cường khả năng cạnh tranh kinh tế của các vùng đô thị này.
Báo cáo lập luận rằng trong khi các dịch vụ cơ bản ở Việt Nam đã được cung cấp tương đối tốt và sự thiếu vắng các khu ổ chuột lớn cho thấy đa số người dân đều có thể tiếp cận với nhà ở, thì cũng có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy điều này đang thay đổi. Phân tích trong báo cáo cho thấy chỉ có 5% dân số thu nhập cao nhất ở Hà Nội và TP.HCM có khả năng chi trả cho nhà đất do các Cty phát triển đô thị cung cấp qua kênh chính thức. Do vậy, Việt Nam cần xử lý sớm hệ thống giá đất kép và sự mập mờ của thị trường nhà đất, cũng như thói quen bán và cho thuê đất để tăng ngân sách địa phương, là những thực tế có thể dẫn tới phát triển đô thị lộn xộn.
Báo cáo kêu gọi các nhà quy hoạch giải quyết các vấn đề giao thông đô thị để nâng cao chất lượng sống và cung cấp thêm nhiều lựa chọn giao thông cho người dân, kể cả người nghèo, trẻ em, người già và người tàn tật. Giải quyết những vấn đề này cũng đồng nghĩa với hiện đại hóa và cải cách hệ thống quy hoạch của Việt Nam, tăng cường quản lý đô thị và đảm bảo phối hợp tốt hơn giữa các cấp chính quyền và giữa các ban ngành của TP.
Bà Victoria Kwakwa - Giám đốc WB tại Việt Nam nhận định: "Quá trình đô thị hóa sẽ là một phần quan trọng trong tương lai của Việt Nam và đảm bảo có TP dễ sống và có khả năng cạnh tranh trong khu vực và trên toàn cầu sẽ là một phần cần thiết trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam."
Riêng tại hội nghị CG vào trung tuần tháng 12, các đối tác phát triển cam kết tài trợ 6.485 triệu USD cho chương trình phát triển của Việt Nam năm 2013.

Thứ Bảy, 29 tháng 12, 2012


Gạch không nung xi măng cốt liệu: Sự lựa chọn bền vững
...
Ông Lê Hoài An, Giám đốc Công ty cổ phần Gạch Khang Minh (bên phải) giới thiệu sản phẩm gạch xi măng cốt liệu mới với Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam
(baodautu.vn) Việc Bộ Xây dựng ban hành Thông tư số 09/2012/TT-BXD ngày 28/11/2012 quy định sử dụng vật liệu xây dựng không nung trong các công trình xây dựng một lần nữa khẳng định quyết tâm của Chính phủ trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành sản xuất vật liệu xây dựng thân thiện với môi trường.
Nguồn nguyên liệu chính để sản xuất gạch đất nung là đất sét từ đất canh tác nông nghiệp, đất bãi bồi ven sông, đất đồi. Trong nhiều năm qua, do bị khai thác tràn lan, thiếu kiểm soát, diện tích đất canh tác bị xâm hại quá lớn, gây sụt giảm nghiêm trọng diện tích trồng cây nông nghiệp, ảnh hưởng đến an ninh lương thực quốc gia. Bên cạnh đó, với tốc độ khai thác đất bãi bồi ven sông như hiện nay, việc sản xuất gạch đã gây ra hệ lụy không nhỏ đối với môi trường ven sông, dẫn tới tình trạng sụt lở đất ven sông, tác động đến an sinh của người dân.
Trong khi đó, khác với gạch đất sét nung, gạch không nung xi măng cốt liệu có nguyên liệu chính là đá mạt, phụ phẩm cuối cùng của các đơn vị khai thác đá, nên hầu hết những địa phương có mỏ đá vôi đều có thể tổ chức, quy hoạch sản xuất gạch xi măng cốt liệu. Nguyên liệu để sản xuất gạch xi măng cốt liệu dồi dào và thuận lợi hơn so với nguồn nguyên liệu để sản xuất gạch đất nung. Đây là một lợi thế rất lớn khiến gạch xi măng cốt liệu có nguồn cung cấp dồi dào, sản phẩm chất lượng cao, giá cả cạnh tranh.
Gạch xi măng cốt liệu Khang Minh của Công ty cổ phần Gạch Khang Minh được sản xuất trên dây chuyền thiết bị hiện đại, sản phẩm được cấu thành từ máy rung ép thủy lực, không gây khói bụi, bảo vệ môi trường. Một yếu tố cần được nhắc đến trong công nghệ sản xuất chính là suất đầu tư. Để vận hành một nhà máy sản xuất gạch đất sét nung bằng công nghệ tuy-nen với tổng công suất khoảng 30 triệu viên/năm, cần ít nhất 30 tỷ đồng. Tuy nhiên, cùng số tiền đầu tư đó, một nhà máy sản xuất gạch xi măng cốt liệu có thể cho công suất 60 triệu viên quy tiêu chuẩn/năm.
Như vậy, có thể dễ dàng nhận thấy, các chỉ tiêu về suất đầu tư, công suất, điều kiện sản xuất của gạch xi măng cốt liệu đều thuận lợi và có tính cạnh tranh cao hơn so với gạch nung. Bên cạnh đó, nhà máy sản xuất gạch xi măng cốt liệu cũng có lợi thế lớn về việc tiết kiệm quỹ đất phát triển. 
Ngoài ra, gạch xi măng cốt liệu có ưu thế nổi trội hơn hẳn gạch đất nung về chất lượng và tính ứng dụng của sản phẩm. Cụ thể, gạch xi măng cốt liệu có cường độ chịu lực cao; chống thấm tốt; mẫu mã, kích thước đa dạng; giá cả cạnh tranh, ổn định; sản lượng lớn; giảm thời gian thi công, tiết kiệm chi phí; công cụ, vật tư, thói quen, kỹ thuật thi công đơn giản; dễ dàng trong quản lý và thân thiện với môi trường.
Với nhiều lợi thế cạnh tranh, cùng với định hướng khuyến khích phát triển của Chính phủ, gạch không nung xi măng cốt liệu đang ngày càng trở nên thông dụng, được nhiều chủ đầu tư, nhà thầu và người tiêu dùng tin dùng khi thỏa mãn tốt các yếu tố là sản phẩm văn minh, chất lượng tốt, mẫu mã đa dạng và giá thành rẻ.

Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012


Rác thải, nước thải y tế: Xử lý qua loa, hậu quả nặng nề
Cập nhật lúc09:49, Thứ Ba, 25/12/2012 (GMT+7)
Trên địa bàn thành phố có hơn 1.300 cơ sở y tế, trong đó có 26 bệnh viện các cấp, 224 trạm y tế xã, phường… Lượng rác thải, nước thải phát sinh hằng ngày từ các cơ sở y tế là bao nhiêu; lượng rác thải, nước thải đã được xử lý như thế nào, có đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường? Đây vẫn là những vấn đề chưa có câu trả lời thỏa đáng.
Chấp hành luật chưa nghiêm
Trên địa bàn thành phố mới có 8/26 bệnh viện được đầu tư hệ thống xử lý nước thải y tế. Hầu hết việc xử lý rác thải, nước thải tùy thuộc vào điều kiện kinh phí của từng đơn vị. Do đó, rác thải, nước thải của những cơ sở này được xử lý rất đa dạng. Bệnh viện Đa khoa An Lão hiện có 2 cơ sở, trung bình mỗi ngày bệnh viện này phục vụ 600 bệnh nhân điều trị nội, ngoại trú, thải ra một khối lượng rác, nước thải khá lớn. Thế nhưng, đến nay Bệnh viện An Lão vẫn chưa được đầu tư hệ thống xử lý nước thải, rác thải hiện đại. Việc xử lý rác chủ yếu bằng các biện pháp thủ công như chôn, đốt. Còn nước thải, theo kết quả khảo sát của Công ty cấp nước Hải Phòng, bệnh viện xử lý bằng cách để tự ngấm, tràn ra sông Đa Độ. Bệnh viện Đa khoa An Dương đã được đầu tư xây dựng bể xử lý nước thải với chi phí lên đến hàng trăm triệu đồng, tuy nhiên, thực chất đây chỉ là những bể chứa nước thải. Quy trình xử lý chỉ là dùng hóa chất “bơm” thẳng vào bể, sau khi cho lắng cặn, rồi xả thẳng ra sông Đa Độ. Nước thải từ bệnh viên Giao thông Vận tải đưa vào nguồn nước sông Rế qua kênh Bắc Hưng Hùng.
Thực tế, nhiều cơ sở khám chữa bệnh chưa thực hiện nghiêm việc đánh giá tác động môi trường, chưa xây dựng đề án bảo vệ môi trường, thiếu cam kết bảo vệ môi trường. Rác thải y tế và rác thải sinh hoạt tuy được thu gom, phân loại theo quy trình song chưa hoàn thiện. Có cơ sở khám chữa bệnh có hệ thống xử lý nước thải nhưng chưa được vận hành, xử lý nước thải đúng quy định. Đây là kết luận của lực lượng cảnh sát môi trường qua đợt kiểm tra 59 bệnh viện, phòng khám đa khoa vừa qua. Kết quả này thêm lần nữa cảnh báo những ẩn họa do việc xử lý rác thải y tế chưa đúng cách. 
Trên địa bàn Hải Phòng rất ít cơ sở y tế có khu xử lý nước thải và rác thải y tế. Trong ảnh: Khu xử lý nước thải của Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp.
Trên địa bàn Hải Phòng rất ít cơ sở y tế có khu xử lý nước thải và rác thải y tế. Trong ảnh: Khu xử lý nước thải của Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp.
Đe dọa sức khỏe cộng đồng
Theo Quy chế quản lý chất thải y tế (Bộ Y tế) thì chất thải y tế là chất từ các hoạt động khám chữa bệnh, chăm sóc, xét nghiệm, nghiên cứu... trong các cơ sở y tế. Các chất thải rắn y tế nguy hại bao gồm: chất thải lây nhiễm sắc nhọn (bơm kim tiêm, đầu sắc nhọn của dây truyền dịch, lưỡi dao mổ, đinh mổ, cưa, các ống tiêm, mảnh thủy tinh vỡ và các vật sắc nhọn khác), chất thải lây nhiễm không sắc nhọn (bông, băng, gạc); chất thải có nguy cơ lây nhiễm (bệnh phẩm và dụng cụ đựng dính bệnh phẩm); chất thải giải phẫu (các mô, cơ quan, bộ phân cơ thể người, nhau thai, bào thai); chất thải hóa học nguy hại (dược phẩm quá hạn, kém phẩm chất không còn khả năng sử dụng, chất hóa học nguy hại sử dụng trong y tế), chất thải chứa kim loại nặng (thủy ngân từ nhiệt kế, huyết áp kế bị vỡ).
Nước thải bệnh viện ngoài những yếu tố ô nhiễm thông thường như chất hữu cơ, dầu mỡ động thực vật, vi khuẩn thông thường còn có những chất bẩn khoáng và hữu cơ đặc thù như các vi khuẩn gây bệnh, chế phẩm thuốc, chất khử trùng, các dung môi hóa học, dư lượng thuốc kháng sinh, các đồng vị phóng xạ được sử dụng trong quá trình chẩn đoán và điều trị.
Hơn nữa, trong chất thải y tế lại chứa đựng các tác nhân gây bệnh truyền nhiễm như tụ cầu, HIV, viêm gan B. Các tác nhân này có thể thâm nhập vào cơ thể con người qua các vết trầy xước, vết đâm xuyên, qua niêm mạc, qua đường hô hấp (do hít phải), qua đường tiêu hóa (do nuốt hoặc ăn phải). Nước thải bệnh viện còn là nơi "cung cấp" vi khuẩn gây bệnh, nhất là nước thải từ những bệnh viện chuyên về các bệnh truyền nhiễm cũng như trong các khoa lây nhiễm của các bệnh viện. Những nguồn nước thải này là một trong những nhân tố cơ bản có khả năng làm lây lan các bệnh truyền nhiễm thông qua đường tiêu hóa. Đặc biệt nguy hiểm khi nước thải bị nhiễm các vi khuẩn gây bệnh, có thể dẫn đến dịch bệnh cho người và động vật qua nguồn nước khi sử dụng nguồn nước này vào mục đích tưới tiêu, ăn uống... Khi chất thải y tế không được xử lý đúng cách (chôn lấp, thiêu đốt không đúng quy định, tiêu chuẩn) sẽ dẫn đến ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí, và sự ô nhiễm này sẽ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sức khỏe con người, hệ sinh thái. Việc thu gom, phân loại và xử lý các chất thải y tế không bảo đảm đó sẽ gây ảnh hưởng xấu tới sức khỏe cộng đồng và nhất là của những người trực tiếp tiếp xúc với chất thải. Để tránh sự nguy hại của chất thải y tế đối với sức khỏe và môi trường, và bảo vệ những người thường xuyên tiếp xúc với chất thải y tế, ngành y tế cần quan tâm nhiều hơn nữa công tác xử lý chất thải y tế.