Thứ Năm, 11 tháng 4, 2013


Gạch xi măng cốt liệu: Chất lượng cao, có thể tái sử dụng
Quang Hưng
Công ty Khang Minh có năng lực sản xuất 155 triệu viên gạch/năm
(baodautu.vn) Trong quý I/2013, Công ty cổ phần Gạch Khang Minh đã đưa được một lượng lớn sản phẩm gạch xi măng cốt liệu đến nhiều công trình xây dựng. Đây là loại gạch có chất lượng vượt trội, thân thiện với môi trường.
Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, ông Đặng Việt Lê, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Gạch Khang Minh cho biết, vượt qua tình trạng vật liệu xây dựng khó tiêu thụ do sự “đóng băng” của thị trường bất động sản, Công ty Gạch Khang Minh đã ký được hàng loạt hợp đồng cung cấp sản phẩm gạch xi măng cốt liệu cho các công trình xây dựng ở nhiều địa phương. Từ tháng 1/2013 đến nay, Công ty đã có hàng chục đơn hàng xây dựng nhà xưởng, khu công nghiệp, ký túc xá công nhân tại Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Hà Nam…, với số lượng lên tới hơn 30 triệu viên (quy tiêu chuẩn).
Ông Đặng Việt Lê cho biết, được sản xuất từ hai nguyên liệu chính là xi măng (chiếm 8 - 10%) và đá mạt (loại đá sạch, không lẫn đất, đường kính nhỏ hơn 5 mm), gạch xi măng cốt liệu có độ kết dính cao, ít khe hở, chống thấm nước. Sản phẩm luôn đạt chất lượng cao và ổn định, vì được sản xuất bằng dây chuyền máy móc, thiết bị hiện đại, quy mô công nghiệp.
Ban đầu ra thị trường, gạch xi măng cốt liệu thường bị chê nặng, nhưng sau một thời gian sử dụng, sản phẩm này đã khẳng định được những đặc tính ưu việt của mình. Để sản phẩm có cường độ chịu lực trên 75 kg/cm2, với gạch đất sét nung phải dùng loại gạch đặc tỷ trọng 1.800 kg/m3, trong khi gạch không nung xi măng cốt liệu chỉ cần dùng loại kết cấu lỗ rỗng tỷ trọng 1.400 kg/m3.
Thực tế đã chứng minh, có những công trình cao tầng, như Keangnam Hà Nội (70 tầng), Lotte (65 tầng), Hyundai HillStade (32 tầng), Nam Đô Complex (28 tầng)... hoàn toàn chỉ xây bằng gạch xi măng cốt liệu. Sức nặng của viên gạch được xem như một trong những yếu tố giúp công trình đứng vững trước tác động của ngoại lực, như sức gió, mưa bão, sự biến động của nhiệt độ, áp suất…
Mặt khác, gạch xi măng cốt liệu khá gần gũi với người xây dựng Việt Nam, vì thi công bằng vữa thông thường. Gạch sản xuất bằng khuôn, đồng đều, nên tiết kiệm được lượng vữa xây trát. Vữa được cấu thành từ xi măng và cát, trong khi gạch xi măng cốt liệu được sản xuất từ xi măng và đá mạt, nên có thể nói hai nguyên liệu này có tính chất tương đồng, nên độ kết dính giữa gạch xi măng cốt liệu và vữa rất cao. Một tính năng ưu việt khác của sản phẩm này là khả năng tái sử dụng do cường độ chịu lực của gạch tốt, nên nếu khi phá dỡ công trình, các viên gạch vẫn giữ được nguyên hình khối để có thể tái sử dụng.
Nhờ tận dụng được nguồn nguyên liệu đầu vào sẵn có, hiện tại, việc sản xuất gạch xi măng cốt liệu đã được phát triển rộng rãi ở nhiều địa phương. Không kể các cơ sở sản xuất công suất nhỏ 3 - 5 triệu viên/năm, tính đến nay, cả nước đã có hơn 30 đơn vị sản xuất với công suất lớn (từ 7 triệu viên/năm trở lên).

Quy hoạch hệ thống thoát nước và xử lý nước thải lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy

Bộ Xây dựng vừa có tờ trình Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Quy hoạch (QH) hệ thống thoát nước và xử lý nước thải khu vực dân cư, KCN thuộc lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy đến năm 2030.
Theo đó, diện tích lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy thuộc toàn bộ ranh giới hành chính của tỉnh Hà Nam, Ninh Bình và một phần ranh giới hành chính của tỉnh Hòa Bình, Nam Định và TP Hà Nội với tổng diện tích khoảng 7.665km2. Trên cơ sở đó, QH đề ra mục tiêu dự báo nhu cầu thoát nước và xử lý nước thải, xác định các vùng tiêu thoát nước, phương án thoát nước, xử lý nước thải và nhu cầu đầu tư trong từng giai đoạn. Bên cạnh đó, QH còn đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về hoạt động thoát nước và xử lý nước thải; Làm cơ sở cho việc lập và triển khai các dự án đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước và xử lý nước thải thuộc phạm vi lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy.
Theo Tờ trình Bộ Xây dựng gửi Thủ tướng Chính phủ, lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy được chia thành 09 vùng tiêu bao gồm: 01 vùng tiêu miền núi thượng sông Bôi tiêu tự chảy được hoàn toàn. 8 vùng tiêu là sông Nhuệ, sông Tích - sông Thanh Hà, Hữu Đáy, Bắc Ninh Bình, Nam Ninh Bình, Bắc Nam Hà (Kim Bảng - Duy Tiên), Trung Nam Định, Nam Nam Định do địa hình một số vùng thấp hơn mực nước sông trong mùa lũ, tiêu thoát nước mặt cho các khu vực này là kết hợp tiêu tự chảy và tiêu động lực. Giải pháp tiêu thoát nước cho các khu vực là tích nước bằng hệ thống hồ điều hòa, hồ cảnh quan trong lưu vực, tăng cường chế độ tiêu tự chảy, giảm thiểu chi phí đầu tư, quản lý hệ thống công trình đầu mối tiêu động lực, cải thiện môi trường sinh thái và góp phần tạo dựng mỹ quan đô thị.
Về QH thoát nước mưa khu vực đô thị: Các đô thị được chia thành các lưu vực thoát nước đảm bảo thoát nước mưa nhanh và triệt để. Đối với các đô thị trung du, miền núi thuộc tỉnh Hòa Bình, Hà Nam, Ninh Bình có độ dốc địa hình thoát tự chảy tốt, tận dụng hệ thống hồ hiện có, xây dựng thêm hồ đa chức năng để tích nước và điều tiết nước mưa. Đối với các đô thị đồng bằng, tăng cường tối đa sử dụng hệ thống hồ điều hoà để tiếp nhận, điều tiết nước mưa, tổ chức thoát nước mưa theo nguyên tắc lấy kênh, hồ là tuyến thoát nước chính...
Ở khu vực nông thôn: Đối với sông, suối chảy qua khu vực dân cư cần cải tạo, gia cố bờ, chống sạt lở; Tận dụng tối đa mặt nước (ao, hồ tự nhiên và nhân tạo), mặt phủ thấm nước để thoát nước mặt theo chế độ tự chảy. Đối với khu dân cư nằm bên sườn đồi, núi phải thiết kế các mương đón hướng dòng chảy trên đỉnh đồi, núi xuống, không chảy tràn qua khu dân cư. Còn các KCN xây dựng hệ thống thoát nước riêng. Nước mưa được thoát ra sông, kênh, rạch và không phải xử lý.
Theo QH thoát nước thải và xử lý nước thải thì các đô thị từ loại III trở lên đang sử dụng mạng lưới thoát nước chung, xây dựng hệ thống cống bao, giếng tách để đưa nước thải về nhà máy xử lý. Các đô thị mới, đô thị loại IV, loại V xây dựng hệ thống thoát nước riêng, thu gom xử lý tập trung đạt quy chuẩn kỹ thuật trước khi xả ra hệ thống sông trong khu vực.
Đối với các KCN: Sẽ xây dựng hệ thống thoát nước riêng, thu gom xử lý tập trung đạt quy chuẩn kỹ thuật trước khi xả ra hệ thống sông trong khu vực. Bản QH cũng đưa ra địa điểm dự kiến xây dựng các nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt cho các đô thị thuộc phạm vi lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy. Còn ở các khu dân cư nông thôn, do lượng nước thải ít nên sẽ được xử lý theo từng hộ gia đình.
Ước tính vốn đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước (bao gồm hệ thống thoát nước mưa, nước thải, trạm xử lý nước thải) trong phạm vi lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy đến năm 2020 khoảng 90,5 nghìn tỷ đồng và năm 2030 là 108,3 nghìn tỷ đồng.

Hà Nội: Giảm dần lượng khai thác nguồn nước ngầm

Theo Quy hoạch cấp nước Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nguồn nước sạch cho dân Thủ đô cơ bản sẽ được lấy từ nguồn nước mặt, thay cho nguồn nước ngầm chủ yếu như hiện nay.
Dự kiến đến năm 2020, tổng nhu cầu tối thiểu về nước sạch của Hà Nội là 1,287 triệu m3. Nhưng hiện tại, tổng công suất các nhà máy nước của TP mới đạt hơn 858,4 nghìn m3 nước. Như vậy, từ nay đến năm 2020 Hà Nội sẽ phải đầu tư để tăng cường nguồn nước sạch thêm khoảng 955 nghìn m3 nước.
Để đảm bảo sự bền vững của tài nguyên nước, bên cạnh việc khai thác hợp lý và giảm dần công suất các nhà máy nước ngầm, Hà Nội sẽ ưu tiên đầu tư khai thác nguồn nước mặt chủ yếu từ sông Đà, sông Hồng và sông Đuống. Trong đó, đến năm 2020, nguồn nước khai thác từ sông Đà với lưu lượng là 600 nghìn m3/ngđ, sông Hồng 300 nghìn m3/ngđ và sông Đuống là 300 nghìn m3/ngđ (trong đó cấp cho Hà Nội 240 nghìn m3/ngđ, còn lại cấp nước cho một số khu vực tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên).
Theo tính toán, tổng nhu cầu nước sạch tối thiểu của Hà Nội đến năm 2050 là 3,328 triệu m3/ngđ. Nhu cầu nước sạch cơ bản sẽ được lấy từ nước mặt sông Đà, sông Hồng và sông Đuống. Đối với những khu vực nhỏ, cục bộ mà cấp nước đô thị không dẫn đến được sẽ sử dụng nước ngầm tại chỗ.
Một số nguồn nước ngầm phía nam Hà Nội có chất lượng xấu sẽ giảm dần công suất khai thác và ngừng hoạt động vào năm 2020 đối với Nhà máy nước Hạ Đình và năm 2030 đối với Nhà máy nước Tương Mai, Nhà máy nước Pháp Vân. Thay thế nguồn nước ngầm này là nguồn nước mặt lấy từ Nhà máy nước mặt Sông Đà và từ Nhà máy nước mặt Sông Đuống.
Như vậy, trong 7 năm tới, Hà Nội sẽ giảm dần lượng khai thác nước ngầm từ hơn 628,4m3 nghìn/ngđ (chiếm 73,2% tổng công suất các nhà máy nước) xuống 623,5 nghìn m3/ngđ vào năm 2020 (chiếm 35% công suất các nhà máy nước), và đến năm 2050 lượng nước khai thác từ nguồn nước ngầm của Hà Nội sẽ chỉ chiếm 17,36% trên tổng công suất các nhà máy nước.
Đồng thời, các nhà máy nước xây dựng mới sẽ phải lựa chọn các công nghệ, thiết bị hiện đại, tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường. Trong đó, đối với nguồn nước ngầm sẽ áp dụng công nghệ truyền thống làm thoáng - xử lý sơ bộ - lọc nhanh - khử trùng. Còn nguồn nước mặt sẽ áp dụng công nghệ sơ lắng - trộn - phản ứng keo tụ - lắng - lọc nhanh - khử trùng.
Cùng với việc đầu tư phát triển các nhà máy nước mặt, đến năm 2020 Hà Nội dự kiến sẽ đầu tư xây dựng mạng lưới đường ống truyền tải và đường ống cấp I khoảng 686,5km, các trạm bơm tăng áp, cũng như thay thế các đường ống cũ để đảm bảo nguồn nước, chống thất thoát nước sạch.
Dự kiến, nguồn vốn để thực hiện Quy hoạch cấp nước Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 là khoảng 72 nghìn tỷ đồng. Trong đó, giai đoạn đến năm 2020 sẽ tập trung đầu tư các nhà máy nước ngầm, Nhà máy nước Sông Hồng, Nhà máy nước Sông Đuống giai đoạn I và II, Nhà máy nước Sông Đà giai đoạn II và mạng lưới đường ống cấp nước khoảng 50 nghìn tỷ đồng. Nguồn vốn đầu tư được huy động từ nhiều nguồn khác nhau: Vốn ngân sách Nhà nước, vốn ODS, vốn tài trợ nước ngoài, vốn tín dụng đầu tư, vốn từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước…

Nhà xã hội sẽ đại hạ giá nhờ ...gạch?
TPO - Nhiều chuyên gia cho rằng, nếu áp dụng gạch không nung vào xây dựng nhà ở xã hội sẽ tiết kiệm thời gian, giảm giá thành.
Kỳ vọng nhà ở xã hội sẽ đại hạ giá nhờ công nghệ xây dựng mới. Ảnh: N.M
Kỳ vọng nhà ở xã hội sẽ đại hạ giá nhờ công nghệ xây dựng mới. Ảnh: N.M.
Giảm 50%
Giám đốc một doanh nghiệp xây dựng nhà xã hội cho biết, vừa qua nhà thương mại sốt với những căn hộ chung cư ở Đại Thanh, Kim Văn- Kim Lũ với giá 10 - 15 triệu đồng/m2 mà chủ đầu tư vẫn có lãi. Với những ưu đãi của Nhà nước về tiền sử dụng đất, lãi vay cộng thêm áp dụng những vật liệu xây dựng tiết kiệm như gạch không nung sẽ khiến giá nhà xã hội giảm chỉ bằng một nửa giá nhà thương mại đó.
Theo lộ trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, từ nay đến năm 2020, gạch nung sẽ được thay thế hoàn toàn bằng gạch không nung.
Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam trong một hội nghị về vật liệu xây dựng đã thẳng thắn cho biết, nếu dùng đất nung thì sẽ mất nhiều đất canh tác, ảnh hưởng nghiêm trong đến an ninh lương thực, và phải sử dụng một lượng than hóa thạch khổng lồ, kèm theo đó là một lượng củi đốt rất lớn dẫn đến chặt phá rừng, mất cân bằng sinh thái, hậu họa của thiên tai. Và nghiêm trọng hơn còn gây ô nhiễm môi trường, để lại hậu quả dài lâu. Thứ trưởng khuyến khích sử dụng gạch không nung trong xây dựng để hạn chế các nguyên nhân trên, đồng thời góp phần giảm giá thành xây dựng.
Theo TS. Phạm Sỹ Liêm, Phó Chủ tịch Tổng Hội xây dựng Việt Nam, nếu áp dụng đồng bộ từ gạch không nung cho đến sơn vào nhà xã hội, giá sẽ giảm 50% so với giá thành xây dựng hiện nay.
Từ khuyến khích đến bắt buộc
Ông Lê Văn Tới, Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) cho rằng, việc tạo cơ chế đồng bộ cho vật liệu xây dựng không nung cần phải đẩy nhanh hơn vì những mục tiêu xã hội hết sức tốt đẹp. Có một thực tế, mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thấy được nhiều lợi thế từ sản phẩm vật liệu không nung.
Tuy nhiên do thói quen sử dụng gạch nung cho việc xây dựng nhà và các công trình dân dụng chiếm 93% nên ban đầu sản phẩm tiêu thụ rất khó khăn. Cùng với đó, Nhà nước có chính sách khuyến khích đầu tư nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể, nhất là ưu đãi trong vay vốn, giảm thuế… chưa hình thành đồng bộ tiêu chuẩn sản phẩm, kỹ thuật sản xuất; chưa ban hành được đơn giá, quy phạm, định mức xây dựng liên quan đến sản xuất và sử dụng vật liệu không nung trong các công trình xây dựng.
Lãnh đạo Công ty An Thái chuyên sản xuất gạch không nung phân tích, gạch bê tông khí chưng áp là loại gạch được sản xuất bằng công nghệ cao, với vốn đầu tư lớn. Gạch có nhiều ưu việt như trọng lượng nhẹ, cách âm, cách nhiệt....
Ở Nhật Bản, một đất nước thường xuyên xảy ra động đất thì sản phẩm AAC càng được sử dụng phổ biến. Gạch AAC có tính năng kháng chấn nên sau trận động đất, các bức tường xây bằng AAC vẫn nguyên vẹn. “Chúng tôi là đơn vị tiên phong trong lĩnh vực gạch không nung nhưng hiện nay do thị trường BĐS đóng băng nên lượng tiêu thụ gạch giảm sút. Điều đặc biệt là nếu áp dụng gạch không nung vào xây nhà xã hội sẽ giảm giá thành xuống nhưng cho đến nay dù có lộ trình xây dựng gạch không nung thay thế gạch thường nhưng vẫn chưa có chủ đầu tư nào mạnh dạn sử dụng gạch không nung. Chúng tôi mong Nhà nước nên có chính sách mạnh hơn nữa để những doanh nghiệp đi đầu như chúng tôi không bị chết yểu”, vị này nói.

Thứ Bảy, 23 tháng 2, 2013


“Nóng” với quy định sử dụng VLXD không nung

21/02/2013 11:41
Chương trình sử dụng vật liệu xây không nung (VLXKN) sau khi triển khai đã nhận được sự hưởng ứng của nhiều DN. Tuy nhiên, một số địa phương lại cho rằng thực hiện chương trình này quá khó do vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp.
Về việc thực hiện Thông tư 09 của Bộ Xây dựng quy định sử dụng VLXKN trong các công trình xây dựng, ông Trương Chí Trung - Phó giám đốc Sở Xây dựng Quảng Trị cho biết, việc thực hiện quy định này đối với Quảng Trị là rất khó khăn. Theo ông Trung, tỉnh Quảng Trị hiện có 1 đô thị loại III, 1 đô thị loại IV, 15 đô thị loại V, trong khi đó lại chưa có cơ sở sản xuất VLXKN nào. Việc sử dụng VLXKN từ các địa phương khác sẽ làm tăng đáng kể chi phí xây dựng công trình trong khi nguồn vốn ngân sách của địa phương rất hạn chế. Do đó, ông Trung đề nghị Bộ Xây dựng cho phép Quảng Trị được hưởng cơ chế đặc thù, lùi thời hạn thực hiện Thông tư 09. Cùng quan điểm này, Sở Xây dựng Lào Cai cho biết: Lào Cai hiện có 6 nhà máy sản xuất gạch tuynen với sản lượng 140 triệu viên/năm. Hiện tại các công trình sử dụng vốn ngân sách chỉ sử dụng gạch tuynen vì Lào Cai chưa có nhà máy sản xuất VLXKN nào. Nếu Lào Cai sử dụng gạch không nung thì chi phí sẽ rất cao do phải mua gạch từ địa phương khác, còn các nhà máy gạch tuynen sẽ phải giảm sản lượng hoặc đóng cửa, người lao động sẽ mất việc làm, DN không thu hồi được vốn do mới đi vào sản xuất được vài năm.
Một số địa phương khác cũng có cùng quan điểm như trên. Theo Sở Xây dựng Quảng Bình, địa phương này hiện mới chỉ có một cơ sở sản xuất VLXKN, hàng năm chỉ đạt sản lượng 10 triệu viên/năm, và một dự án sản xuất VLXKN đang chuẩn bị được đầu tư chứ chưa có cơ sở nào sản xuất gạch không nung loại nhẹ. Vì thế, nếu yêu cầu các dự án đầu tư từ nguồn vốn ngân sách bắt buộc phải sử dụng VLXKN bây giờ là rất khó khăn. Ngành Xây dựng Lâm Đồng cũng trong hoàn cảnh tương tự. Ông Nguyễn Dũng - Phó giám đốc Sở Xây dựng Lâm Đồng cho biết: Thời điểm thực hiện Thông tư 09 của Bộ Xây dựng quy định sử dụng VLXKN là 15/1/2013. Tuy nhiên hiện nay, sản lượng VLXKN của Lâm Đồng vẫn chưa đáp ứng được, sản lượng gạch block của một số cơ sở sản xuất không đáng kể do đang trong giai đoạn thăm dò thị trường. Do đó, nếu bắt buộc công trình sử dụng vốn ngân sách phải sử dụng từ 50 - 70% VLXKN thì sẽ tăng đáng kể chi phí do phải chuyên chở từ tỉnh ngoài về trong khi vốn ngân sách Nhà nước rất hạn hẹp…
Trước thực tế khó khăn khi áp dụng Thông tư 09 về quy định sử dụng VLXKN như vậy, các địa phương trên đều kiến nghị Bộ Xây dựng không hoặc lùi thời hạn thực hiện. Riêng Sở Xây dựng Quảng Bình kiến nghị được lùi thời hạn thực hiện Thông tư 09 một năm. Cũng liên quan đến lĩnh vực VLXD, ông Nguyễn Minh Dũng - Giám đốc Sở Xây dựng TT-Huế cho biết: Hiện nay tại địa phương, các đơn vị sản xuất VLXD có nhu cầu công bố hợp quy và yêu cầu Sở tiếp nhận bản công bố hợp quy trước khi đưa ra thị trường theo quy định. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có quy chuẩn kỹ thuật tương ứng cho một số loại VLXD. Vì vậy, ông Dũng đề nghị Bộ Xây dựng hướng dẫn cách tiếp nhận công bố hợp quy trong trường hợp chưa có quy chuẩn kỹ thuật nhằm đảm bảo quản lý chất lượng sản phẩm VLXD khi lưu thông trên thị trường.
Giải đáp những băn khoăn, thắc mắc của các địa phương, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam khẳng định, VLXKN là chương trình được Chính phủ, các bộ, ngành tán thành cao. Đến nay, Việt Nam là nước duy nhất ở Đông Nam Á còn sử dụng vật liệu nung. Các lò gạch nung mỗi năm tiêu tốn diện tích đất tương đương với một xã, lại thải ra hàng triệu tấn CO2 gây ô nhiễm môi trường. Do đó, chương trình sử dụng VLXKN kiên quyết phải làm. Tuy nhiên, theo Thứ trưởng, một số địa phương vùng sâu vùng xa có khó khăn khi thực hiện, Bộ Xây dựng sẽ có điều chỉnh riêng cho phù hợp. Trước mắt với những dự án đã phê duyệt từ trước không nhất thiết phải áp dụng ngay, còn những dự án tới đây Bộ sẽ áp dụng tùy đặc thù từng vùng.

Thứ Ba, 19 tháng 2, 2013


Vụ Quản lý hoạt động xây dựng: Nâng cao chất lượng trong soạn thảo, ban hành văn bản

18/02/2013 12:51
Năm 2012 tiếp tục đánh dấu những thành công đáng ghi nhận của Vụ Quản lý hoạt động xây dựng trong công tác tham mưu cho lãnh đạo Bộ soạn thảo, ban hành một số văn bản pháp luật, góp phần đáng kể vào công tác quản lý Nhà nước của Bộ Xây dựng. Phóng viên Báo Xây dựng đã có cuộc trao đổi với ông Bùi Trung Dung – Vụ trưởng Vụ Quản lý hoạt động xây dựng xung quanh vấn đề này.

Ông Bùi Trung Dung – Vụ Trưởng Vụ Quản lý hoạt động xây dựng, Bộ Xây dựng
Xin ông cho biết những kết quả mà Vụ Quản lý hoạt động xây dựng đã đạt được trong năm 2012.
Ông Bùi Trung Dung:Năm 2012 với chức năng của mình, Vụ QLHĐXD đã tập trung rà soát nghiên cứu, soạn thảo một số văn bản quy phạm pháp luật phục vụ cho công tác quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng.
Trước hết, phải kể đến việc soạn thảo để Bộ trình Chính phủ ban hành NĐ 64/2012/NĐ-CP về cấp GPXD; trình Bộ Thông tư số 10/2012/TT-BXD hướng dẫn NĐ 64 và hiện nay đang hoàn thiện trình Bộ Xây dựng và Bộ Tài nguyên & Môi trường ký Thông tư liên tịch giữa 2 Bộ hướng dẫn về các loại giấy tờ về Quyền sử dụng đất để cấp GPXD.
Đây là lần đầu tiên Chính phủ ban hành một Nghị định riêng biệt về cấp GPXD. Cùng với việc soạn thảo và ban hành Nghị định về GPXD, Vụ cũng đã soạn thảo trình Thủ tuớng ký ban hành Quyết định số 03/2012/QĐ-TTg về sửa đổi một số điều của QĐ 87 ban hành Quy chế quản lý hoạt động của nhà thầu nước ngoài trong lĩnh vực xây dựng tại Việt Nam nhằm cải cách thủ tục hành chính, quy định rõ các loại giấy tờ cần thiết và quy trình cấp giấy phép thầu.
Việc soạn thảo, ban hành những văn bản quy phạm pháp luật đã gặp phải những khó khăn như thế nào thưa ông?
Ông Bùi Trung Dung: Riêng lĩnh vực pháp luật về xây dựng thì liên quan đến nhiều lĩnh vực khác như: Đất đai, môi trường, phòng cháy chữa cháy, những quy định về quảng cáo... cho nên trong quá trình soạn thảo cũng cần phải nghiên cứu tất cả những Luật có liên quan sao cho đồng bộ, thống nhất. Từ đó phải rà soát, lấy ý kiến của các Bộ, ngành có liên quan cho nên đã nảy sinh những khó khăn nhất định như: thời gian bị kéo dài; một số nội dung mà ngành xây dựng cần quản lý thì lại vướng những Luật khác đã quy định nên chưa đồng bộ; hệ thống tổ chức quản lý xây dựng từ Trung ương đến địa phương chưa được hoàn thiện, năng lực quản lý ở mỗi địa phương cũng có sự chênh lệch... cho nên mỗi văn bản pháp luật ra để khả thi thì cũng còn là một vấn đề cần phải xem xét toàn diện.
Hiện nay, theo khoán hành chính cho nên việc hướng dẫn thực hiện cũng có nhiều khó khăn. Việc kiểm tra thực hiện pháp luật để xem xét các tổ chức, cá nhân có thực hiện đúng theo pháp luật không... Xem xét những vấn đề chưa đi vào thực tiễn để có thể điều chỉnh kịp thời. Đòi hỏi phải có kinh phí thực hiện việc kiểm tra, thanh tra, đi khảo sát. Vì vậy, tiếp tục xem xét để có những nguồn kinh phí để thực hiện việc thanh tra, kiểm tra các tổ chức, cá nhân thực hiện pháp luật.
Năm 2013 hứa hẹn nhiều khó khăn, ông nhận định như thế nào về những nhiệm vụ quan trọng của Vụ trong thời gian tới.
Ông Bùi Trung Dung: Trước hết Vụ Quản lý hoạt động xây dựng năm 2013 được Bộ giao nhiệm vụ nghiên cứu rà soát, sửa đổi Luật Xây dựng. Sau khi ban hành Luật Xây dựng thì có một loạt Luật được ban hành như: Luật Nhà ở, Luật kinh doanh bất động sản, Luật quy hoạch đô thị, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu...Tất cả những hoạt động xây dựng đều liên quan đến những Luật này. Để đảm bảo sao cho thống nhất đồng bộ với các Luật khác thì Luật Xây dựng cần phải rà soát điều chỉnh sao cho đồng bộ thống nhất với các Luật được ban hành sau đó.
Trong Luật Xây dựng, việc quy định quản lý chung cho tất cả nguồn vốn, bao gồm cả nguồn vốn ngân sách Nhà nước, trong đó nguồn vốn Nhà nước chưa được phân định rõ. Cho nên việc quản lý đối với dự án sử dụng vốn Nhà nước cũng chưa chặt chẽ, dẫn đến nhiều dự án chưa hiệu quả, chất lượng chưa đảm bảo, tiến độ kéo dài... Trong Luật Xây dựng sửa đổi cần phải xác định rõ năng lực, vai chủ đầu tư đối với dự án sử dụng vốn Nhà nước.

Năm 2012, Bộ Xây dựng và các Sở Xây dựng đã tham gia ý kiến về thiết kế cơ sở cho khoảng 3.000 dự án.
Việc tiền kiểm trong quá trình thẩm định các bước thiết kế để đảm bảo an toàn đối với các dự án sử dụng mọi nguồn vốn, đặc biệt là các công trình có quy mô lớn khi xảy ra sự cố xảy ra hiểm họa không lường hết được. Thì cần phải có vai trò quản lý, thẩm tra, thẩm định của cơ quan Nhà nước.
Đồng thời năng lực của các tổ chức, cá nhân hoạt động xây dựng trong thời gian vừa qua không có sự kiểm soát cho nên tình trạng các nhà thầu, cũng như các cá nhân hoạt động xây dựng, năng lực chưa đảm bảo. Sắp tới trong Luật Xây dựng sửa đổi cũng cần phải quy định cụ thể và chi tiết hơn để đảm bảo nâng cao năng lực hoạt động xây dựng nhằm đảm bảo các dự án, các công trình đạt hiệu quả chất lượng cũng như đảm bảo đủ sức cạnh tranh với các nhà thầu nước ngoài.
Một vấn đề nữa là việc điều chỉnh dự án cũng đang vướng mắc dẫn tới nợ đọng trong đầu tư xây dựng mới. Cho nên trong Luật Xây dựng cần phải đề cập tới việc điều chỉnh dự án khi có những biến động bất thường về cơ chế chính sách, giá...đảm bảo các dự án đủ vốn để hoàn thành công trình.
Cùng với việc nghiên cứu, soạn thảo sửa đổi Luật Xây dựng thì sẽ phải nghiên cứu các nghị định và thông tư có liên quan. Như các Nghị định quản lý các dự án, Nghị định quản lý chất lượng công trình... Trong chương trình xây dựng văn bản pháp luật của Quốc hội thì yêu cầu phải trình Quốc hội trong kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa 13 về thời gian cũng tương đối gấp đòi hỏi phải khẩn trương thực hiện việc này.
Vụ cũng đã được Bộ giao cho triển khai thực hiện Đề án Tin học hóa trong cấp phép xây dựng. Đây là một đề án tương đối lớn, thực hiện việc cải cách hành chính trong công tác cấp giấy phép xây dựng.
Để thực hiện những chức năng, nhiệm vụ mà Bộ giao, đồng thời nâng cao tính chủ động giải quyết một số công việc sự vụ. Vụ cũng đã xây dựng Đề án chuyển đổi từ Vụ Quản lý hoạt động xây dựng thành Cục Quản lý hoạt động xây dựng. Do vậy, năm 2013 cũng cần phải khẩn trương để ổn định tổ chức, thiết lập các phòng, các đơn vị chức năng, để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ mà Bộ giao cho.
Từ nhiều năm nay, việc đánh giá xếp hạng năng lực nhà thầu chưa được quan tâm đúng mức. Được biết, Vụ đang tiến hành soạn thảo Thông tư hướng dẫn đăng ký thông tin và đánh giá nhà thầu, ông có thể trao đổi một vài điểm nổi bật của Thông tư này?
Ông Bùi Trung Dung: Trong thời gian vừa qua, việc kiểm soát năng lực của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động xây dựng chưa được chặt chẽ. Do cơ chế Nhà nước chỉ quy định điều kiện năng lực, còn các tổ chức tự xếp hạng và chủ đầu tư đánh giá năng lực của tổ chức, cá nhân thực hiện những công trình cụ thể. Cho nên việc kiểm soát năng lực của các nhà thầu là chưa đạt hiệu quả.
Để tăng cường năng lực hoạt động xây dựng của các tổ chức, cá nhân cũng như công khai minh bạch năng lực của các nhà thầu thì Vụ đang tiến hành soạn thảo Thông tư hướng dẫn đăng ký và đánh giá nhà thầu.
Nội dung của Thông tư này là đưa ra các tiêu chí để chủ đầu tư và có sự tham gia của cơ quan Nhà nước đánh giá mức độ hoàn thành của nhà thầu đối với từng gói thầu, từng công trình. Nhà nước không xếp hạng năng lực mà việc này do chủ đầu tư đánh giá sự đáp ứng năng lực của nhà thầu theo yêu cầu của từng công trình.
Việc yêu cầu công khai thông tin trên trang thông tin điện tử là bắt buộc đối với các nhà thầu, tham dự thầu các công trình có sử dụng vốn Nhà nước. Hy vọng quy định này sẽ là cơ sở để cho các cơ quan, tổ chức giám sát việc lựa chọn nhà thầu của chủ đầu tư theo đúng quy định pháp luật. Để lựa chọn nhà thầu đủ năng lực thực hiện công trình đảm bảo chất lượng, tiến độ hiệu quả của dự án.
Để phục vụ cho công tác đánh giá nhà thầu, Vụ Quản lý hoạt động xây dựng đang đề xuất với Bộ cho phép thành lập Hiệp hội Quản lý dự án đầu tư xây dựng. Đây là tổ chức góp phần thực hiện công tác đánh giá việc thực hiện của các nhà thầu đối với từng công trình.
Trân trọng cảm ơn ông!

Người dân còn e ngại với gạch không nung

19/02/2013 14:35
Những năm gần đây, ngành sản xuất vật liệu xây của tỉnh Hải Dương có bước phát triển khá nhanh, tập trung vào hai loại sản phẩm chính là gạch đất sét nung và gạch không nung. Sản phẩm vật liệu xây cơ bản đáp ứng được yêu cầu xây dựng trong tỉnh và một phần cung cấp cho thị trường các tỉnh lân cận. Hiện tại, sản lượng vật liệu xây của tỉnh đạt khoảng 1,2 tỷ viên tiêu chuẩn mỗi năm. Trong đó, sản lượng gạch không nung chỉ chiếm khoảng 18%.

Sản xuất gạch không nung tại Hải Dương
Sản lượng gạch không nung trong thời gian qua luôn chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu sản xuất vật liệu xây dựng. Toàn tỉnh Hải Dương hiện có trên 500 hộ sản xuất gạch không nung với sản lượng khoảng 45 triệu viên, tương đương 125 triệu viên tiêu chuẩn. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp cũng đã đầu tư xây dựng nhà máy gạch không nung trên địa bàn tỉnh. Ngoài Cty CP Đoàn Minh Công (Tứ Kỳ) đã xây dựng và đưa sản phẩm ra thị trường khoảng 150 triệu viên tiêu chuẩn/năm, Cty CP sông Đà – Cao Cường (TX Chí Linh) cũng đang đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất với công nghệ hiện đại và công suất lên tới 80 triệu viên/năm. Theo đánh giá của các chuyên gia xây dựng, Hải Dương là một trong những địa phương có tỷ lệ sử dụng gạch không nung cao nhất so với mặt bằng chung của cả nước.
Sản xuất gạch không nung trên địa bàn tỉnh Hải Dương có hai khu vực: khu vực đơn lẻ của tư nhân ở tất cả các huyện, thị xã, thành phố và khu vực của các nhà máy với dây chuyền và công nghệ hiện đại. Sản phẩm của những hộ sản xuất đơn lẻ ở các địa phương trong tỉnh thường có công nghệ lạc hậu, phần nhiều được làm bằng tay hoặc hệ thống máy móc đơn giản, lạc hậu. Vì thế, chất lượng sản phẩm thấp, mẫu mã đơn giản không thu hút được sự chú ý của người tiêu dùng. Thời gian gần đây, một số cơ sở cũng đã đầu tư máy móc với công nghệ hiện đại, nhưng số lượng còn ít so với tổng số hộ sản xuất trong cả tỉnh. Bên cạnh đó là sự xuất hiện của các nhà máy sản xuất gạch không nung với công nghệ sản xuất hiện đại được nhập khẩu từ nước ngoài. Nguyên liệu chủ yếu để sản xuất gạch không nung của các dây chuyền này là cát đá, xi-măng, tro bay, xỉ than của các nhà máy nhiệt điện cùng các chất phụ gia khác. Sản phẩm của các nhà máy thường phong phú, đa dạng như gạch xây 4 lỗ, gạch xây 3 lỗ, gạch xây đặc, gạch đặc chèn, gạch đặc nhẹ... với nhiều ưu điểm như không độc hại, không gây ô nhiễm môi trường, bề mặt phẳng, kích thước đồng đều, tiết kiệm vữa xây, chi phí đầu tư giảm...
Mặc dù có rất nhiều ưu điểm, nhưng sản phẩm gạch không nung vẫn chưa tìm được chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Anh Trần Văn Thuận, chủ doanh nghiệp tư nhân Huy Thuận, thị trấn Tứ Kỳ (Tứ Kỳ) cho rằng: “Mặc dù gạch không nung có chất lượng không thua kém so với gạch tuy – nen, nhưng việc tiêu thụ vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Hiện tại, người dân chủ yếu dùng gạch không nung để xây dựng các công trình phụ, chuồng trại, tường rào, bó bờ ao... Rất ít người sử dụng gạch không nung để xây nhà”. Nguyên nhân của vấn đề này, theo ông Phùng Văn Đường, PGĐ Cty CP Đoàn Minh Công cho rằng: “Yếu tố tâm lý và thói quen quyết định đến sự lựa chọn của người dân. Họ đã quá quen với sự hiện diện của gạch nung từ nhiều năm nay. Vì thế, để họ chuyển sang sử dụng gạch không nung là một chặng đường dài và rất gian khó. Hiện tại, với công suất 150 triệu viên/năm, sản phẩm của chúng tôi chủ yếu cung cấp cho các dự án lớn ở Hà Nội và Hải Phòng. Đi vào sản xuất từ năm 2007, nhưng các năm qua chúng tôi cũng chỉ cung cấp cho thị trường Hải Dương đầy tiềm năng khoảng 30% tổng sản phẩm, tập trung chủ yếu ở lĩnh vực xây dựng nhà ở dân sinh”. Cùng với quan điểm này, anh Tuấn cho biết: “Cơ sở của tôi đi tiên phong trong lĩnh vực sản xuất gạch không nung trên địa bàn huyện Tứ Kỳ. Ra đời năm 2006, năm đầu tiên cơ sở chỉ sản xuất khoảng 30 vạn viên. Nhưng đến nay, cơ sở đã cung cấp ra thị trường trên 350 vạn viên. Người dân chủ yếu dùng để xây dựng tường rào, bó bờ ao hoặc xây các công trình phụ. Hầu như chưa có ai sử dụng để xây nhà kiên cố, cao tầng. Người dân vẫn còn e ngại về chất lượng của sản phẩm. Họ chưa thực sự an tâm khi dùng gạch không nung để xây nhà - tài sản cả đời tích cóp của họ”.
Để gạch không nung trở thành sự lựa chọn hàng đầu của người dân, ông Phùng Văn Đường, PGĐ Cty Đoàn Minh Công cho rằng công tác tuyên truyền, vận động được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu. Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với sự phát triển gạch không nung cần cụ thể và sát thực hơn nữa như tạo điều kiện về vốn, mặt bằng và có chế tài cứng rắn trong việc xoá bỏ các cơ sở sản xuất gạch nung không đủ tiêu chuẩn kỹ thuật. Đồng thời, chính các doanh nghiệp sản xuất, nhất là các cơ sở sản xuất nhỏ ở địa phương cần thường xuyên cập nhật các thông tin về sản phẩm, công nghệ và thị trường gạch không nung.