Chủ Nhật, 12 tháng 5, 2013


Khám phá ngôi làng nhà đất được trang trí đẹp mắt

11/05/2013 23:20

Tại miền Nam Burkina Faso, một vùng đất ở Tây Phi gần biên giới Ghana tọa lạc một ngôi làng nhỏ với tên gọi Tiébélé có diện tích khoảng 1.2 ha với những ngôi nhà bằng bùn được trang trí khá tinh xảo và đẹp mắt.

Ngôi làng Tiébélé là nơi trú ngụ của người Kassena, một trong những nhóm dân tộc cổ nhất định cư ở vùng biên giới Burkina Faso vào thế kỷ thứ 15. Làng Tiébélé được biết đến bởi kiến trúc kiểu Gourounsi với những bức tường nhà được trang trí một cách công phu, tỉ mỉ.
Burkina Faso là một vùng quê nghèo, và cũng được xem là một trong những nơi nghèo nhất trên thế giới. Tuy nghèo nàn về vật chất, nhưng đây lại là nơi giàu có về bản sắc văn hóa.
Đối với người dân nơi đây, việc trang trí lên các bức tường nhà là điều quan trọng không thể thiếu trong đời sống văn hóa của họ. Việc trang trí tường nhà là công việc chung được thực hiện bởi những người phụ nữ, đó là một hoạt động cổ xưa bắt nguồn từ khoảng thế kỷ 16 sau công nguyên.
Người Kassena đã xây dựng nhà ở của họ hoàn toàn bằng những vật liệu có sẵn như đất, gỗ và rơm. Đất bùn đươc trộn lẫn với rơm và phân bò, đối với người Kassena thì một thứ cao trát cực kỳ tốt. Ngày nay, chất liệu xây dựng đó được thay thế bằng gạch, đá và có nền móng vừng chắc.
Những ngôi nhà bùn đất ở làng Tiébélé được xây dựng để chống lại thời tiết khắc nghiệt cũng như kẻ thù. Những bức tường có bề dày hơn 30cm, những ngôi nhà này được thiết kế không có cửa sổ ngoại trừ 1 hoặc 2 lỗ nhỏ để ánh sáng lọt qua.
Cửa trước của nhà thường chỉ cao khoảng 70cm, cửa được thiết kế như vậy nhằm mục đích chắn ánh nắng trực tiếp của mặt trời chiếu vào, đồng thời làm cho kẻ thù khó tấn công. Mái nhà được bảo vệ bởi những thang gỗ, nó giúp cho người ta dễ dàng rút thang khi cần thiết. Đồ uống như rượu hoặc bia được người dân tự ủ và nấu ở nhà.
Sau khi nhà được xây xong thì người phụ nữ sẽ có nhiệm vụ trang trí lên những bức tường sử dụng bùn tẩm màu hoặc phấn trắng. Hình ảnh trang trí trên tường thường là những hoạt động về đời sống sinh hoạt hàng ngày hoặc các biểu tưởng tôn giáo….
Sau khi tường được trang trí xong, tổng thể bề mặt của ngôi nhà được quét lại bằng một loại sơn mài tự nhiên được làm từ đậu Néré luộc kết hợp với cây keo gai châu Phi. Việc trang trí tường phải được hoàn thành trước mùa mưa để bảo vệ tường khỏi sự xói mòi của nước mưa.
Một số hình ảnh về những ngôi nhà tại ngôi làng Tiébélé:

Khai mạc Tuần lễ VHTTDL Năm Du lịch quốc gia Đồng bằng sông Hồng - Hải Phòng 2013

12/05/2013 12:48
Năm Du lịch Quốc gia Đồng bằng sông Hồng-Hải Phòng 2013 là cơ hội cho cả vùng phát huy thế mạnh, tạo phát triển đột phá để du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Tối ngày 11/5, TP. Hải Phòng phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các tỉnh Đồng bằng sông Hồng tổ chức Lễ khai mạc Tuần Văn hoá, Thể thao, Du lịch và Lễ hội Hoa phượng đỏ lần thứ 2, những hoạt động trọng tâm của Năm Du lịch Quốc gia Đồng bằng sông Hồng-Hải Phòng 2013 có chủ đề “Văn minh sông Hồng”. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã dự và phát biểu tại sự kiện quan trọng này.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại Lễ khai mạc
TuầnVăn hoá, Thể thao, Du lịch và Lễ hội Hoa phượng đỏ lần thứ 2 tại Hải Phòng.
Đồng bằng châu thổ sông Hồng là nơi có nhiều di tích lịch sử, văn hoá quốc gia, danh lam thắng cảnh, lễ hội dân gian và tài nguyên du lịch biển, du lịch sinh thái phong phú, đa dạng.
Những năm qua, cùng với các địa phương trong cả nước, du lịch của các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng nói chung và Tam giác kinh tế Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh nói riêng đã đạt được nhiều kết quả tích cực với lượng khách du lịch quốc tế tăng trung bình 13,2%/năm, khách du lịch nội địa tăng 14,3%/năm; tổng thu từ du lịch tăng cao.
Trong vùng Đồng bằng châu thổ sông Hồng,TP. Hải Phòng là nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hóa đặc sắc của nền văn minh Việt cổ theo dòng chảy sông Hồng, nơi được thiên nhiên ưu đãi có nhiều tài nguyên tự nhiên đa dạng để phát triển nhiều loại hình du lịch như bãi biển, hải đảo, nổi bật là quần đảo Cát Bà liền kề với vịnh Hạ Long.
Thời gian qua, Hải Phòng đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành Trung ương, các địa phương trong vùng và các tổ chức trong và ngoài nước huy động nhiều nguồn lực, chuẩn bị cơ sở vật chất, tổ chức các hoạt động hướng về cội nguồn, tôn vinh những giá trị văn hóa, di sản quý báu; quảng bá với bạn bè quốc tế và nhân dân trong nước, thu hút được nhiều khách du lịch, đồng thời mở ra những cơ hội hợp tác, hữu nghị và giao thương.

Ảnh: VGP/Nguyễn Hoàng
Phát biểu tại Lễ khai mạc, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, Năm Du lịch Quốc gia Đồng bằng sông Hồng-Hải Phòng 2013 là cơ hội cho cả vùng tổng kết và đề ra phương hướng nhằm phát huy thế mạnh, tạo sự đột phá để du lịch thực sự phát triển, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế-xã hội đất nước.
Theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, hiện nay, Việt Nam đang tích cực triển khai thực hiện Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, nhằm xây dựng ngành du lịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng chiều sâu, chất lượng và hiệu quả; phát triển du lịch bền vững gắn liền với bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc; giữ gìn cảnh quan, bảo vệ môi trường, bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội.
Mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam phấn đấu trở thành quốc gia có ngành du lịch phát triển với mức tăng trưởng bình quân khoảng 12%/năm, đạt trên 10 triệu lượt du khách quốc tế và khoảng 50 triệu lượt du khách nội địa với tổng thu từ khách du lịch khoảng18 tỷ USD, tạo thêm 3 triệu việc làm và đóng góp khoảng 7% GDP.
Để góp phần thực hiện tốt các định hướng và mục tiêu của phát triển du lịch quốc gia, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị các bộ, ngành, thành phố Hải Phòng và các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Hồng cần tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được, nỗ lực vượt qua thách thức, khó khăn, chủ động phối hợp, năng động, sáng tạo phát huy tốt nội lực và các lợi thế về lịch sử, văn hóa, cảnh quan thiên nhiên, đồng thời tranh thủ có hiệu quả sự hỗ trợ, hợp tác của bạn bè trong nước và quốc tế để phát triển du lịch của Tam giác kinh tế Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh nói riêng và cả vùng Đồng bằng sông Hồng nói chung.

Năm Du lịch Quốc gia Đồng bằng sông Hồng
tạo sức bật cho du lịch trong vùng phát triển mạnh. Ảnh: VGP/Nguyễn Hoàng
Đồng thời, đẩy mạnh liên kết, hợp tác giữa các địa phương và phát huy sức mạnh sáng tạo nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp cho phát triển du lịch. Trong đó cần chú trọng phát huy kinh nghiệm, lợi thế so sánh về các di sản văn hóa, di sản thiên nhiên (đặc biệt các di sản được UNESCO công nhận là di sản thế giới); hệ thống lễ hội, làng nghề; truyền thống lịch sử và giá trị sinh thái-nhân văn đặc trưng của nền văn minh lúa nước... để hình thành các sản phẩm du lịch phong phú, độc đáo, đa dạng mang đậm chất văn hóa, văn minh sông Hồng gắn với xây dựng thương hiệu du lịch Đồng bằng sông Hồng có sức cạnh tranh cao, trở thành điểm đến du lịch bền vững mang tầm khu vực và quốc tế.
Chính quyền các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Hồng cần thực hiện các chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch phát triển bền vững; tăng cường thu hút đầu tư; khai thác hợp lý các tiềm năng, giữ gìn môi trường sinh thái; bảo đảm an ninh, an toàn du lịch; chú trọng xây dựng văn hóa, văn minh du lịch, khuyến khích mỗi người dân và mỗi khách du lịch có trách nhiệm cùng chung tay xây dựng môi trường du lịch văn minh, thân thiện và bền vững; qua đó góp phần để bạn bè quốc tế cảm nhận được truyền thống yêu chuộng hòa bình, mến khách của dân tộc ta.
Ngoài ra, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng nhấn mạnh, các bộ, ngành Trung ương cần phối hợp chặt chẽ với các địa phương trong vùng, hỗ trợ, tạo điều kiện và kịp thời tháo gỡ những khó khăn, rào cản trong hoạt động du lịch, thu hút đầu tư, đẩy mạnh công tác xã hội hóa các hoạt động phát triển du lịch, tạo thêm nhiều việc làm, thúc đẩy các ngành khác cùng phát triển, góp phầngiảm nghèo, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo diện mạo mới cho cả vùng.
Ngành du lịch phát triển lớn mạnh sau hơn 25 năm mở cửa, đổi mới và hội nhập. Tính từ năm 1995 đến 2012, lượng khách du lịch quốc tế và nội địa đều tăng hơn 5 lần (khách du lịch quốc tế tăng từ 1,35 triệu lượt lên gần 7 triệu lượt; khách du lịch nội địa tăng từ gần 7 triệu lượt lên gần 33 triệu lượt), tổng thu từ khách du lịch tăng gần 20 lần, đạt 160 nghìn tỷ đồng; đóng góp của ngành du lịch vào GDP cả nước tăng từ 3% lên khoảng 6%.
Cơ sở hạ tầng và hệ thống quản lý Nhà nước về du lịch được đổi mới và tăng cường, tạo ra diện mạo mới cho du lịch Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước còn có nhiều khó khăn, những kết quả đạt được vừa qua cho thấy du lịch đang là một trong những điểm sáng về kinh tế, đóng góp hiệu quả cho sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2013


Cty TNHH MTV kinh doanh nước sạch Hải Dương: Tối ưu hóa quản lý vận hành hệ thống cấp nước

07/05/2013 10:59
Thực hiện “Chương trình quốc gia chống thất thoát, thất thu nước sạch đến năm 2025” của Chính phủ, Cty TNHH MTV kinh doanh nước sạch Hải Dương (Cty KDNS Hải Dương) đã khai thác tối ưu mọi nguồn lực, thực hiện nhiều dự án đầu tư phát triển cấp nước, nhiều giải pháp thực hiện chương trình chống thất thoát, thất thu nước sạch, chủ động sáng tạo trong ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ để từng bước hiện đại hoá cấp nước, đuổi kịp trình độ quản lý và vận hành của các nước tiên tiến trên thế giới, nhằm phát triển hoạt động cấp nước bền vững đáp ứng nhu cầu sử dụng nước sạch; cung cấp nước ổn định, bảo đảm chất lượng, dịch vụ tốt và kinh tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương.

Lắp đặt thiết bị giám sát cho các block
Tối ưu hóa quản lý vận hành hệ thống cấp nước
Ông Nguyễn Văn Đoàn - Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc Cty KDNS Hải Dương chia sẻ: Một trong những giải pháp tổng thể được lựa chọn để thực hiện chương trình chống thất thoát, thất thu và phát triển hoạt động cấp nước bền vững là tối ưu hóa quản lý vận hành hệ thống cấp nước. Trên cơ sở hạ tầng cấp nước hiện có, bao gồm các công trình xử lý nước, hệ thống mạng đường ống, nhu cầu tiêu thụ hiện hữu cũng như giai đoạn tương lai và nguồn lực hiện tại. Sau khi khảo sát nghiên cứu, phân tích đánh giá Cty KDNS Hải Dương đã xây dựng các bước triển khai thực hiện:
Đối với công trình nguồn: Ưu tiên khai thác nguồn nước mặt, hạn chế khai thác nguồn nước ngầm để làm nguồn dự trữ, ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin và truyền thông, đầu tư cải tạo đường truyền công nghệ, ưu tiên cải tạo công nghệ lắng, lắp đặt thiết bị biến tần, xây dựng hệ thống giám sát vận hành, tiến tới tự động hóa vận hành xử lý nước cho tất cả các công trình hiện có.
Đối với hệ thống mạng lưới: Tái cấu trúc lại hệ thống mạng lưới đường ống cấp nước như: Phân vùng tách mạng, tạo lập các block; Xây dựng kế hoạch đầu tư, cải tạo, thay thế lắp đặt đồng hồ tổng; Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, thiết bị công nghệ mới như van thông minh điều tiết áp lực; Xác định các điểm cần kiểm soát theo dõi, phân tích, đánh giá nhu cầu tiêu thụ hiện hữu và các giai đoạn tương lai, cân đối lại áp lực giữa khu vực đầu nguồn và cuối nguồn; Điều tiết sản xuất cho phù hợp.
Xây dựng hệ thống quản lý tổng thể: Cty nhận thấy ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ là cần thiết nhưng phải hiểu biết và làm chủ được khoa học công nghệ (không phụ thuộc vào các nhà cung cấp và dịch vụ) thì mới đảm bảo bền vững, đồng thời phải phù hợp với điều kiện nguồn hiện có của Cty.
Thành quả đạt được
Từ năm 2011, Cty đã nghiên cứu chế tạo thành công thiết bị giám sát lưu lượng, áp lực… lắp đặt cho tất cả các hệ thống cấp nước của Cty đồng thời ứng dụng các công nghệ thông tin và truyền thông xây dựng được phần mềm hệ thống: Cải tiến phần mềm điều khiển quản lý thiết bị, phần mềm quản lý người sử dụng hệ thống, thu thập thông tin, phân tích và tổng hợp và xây dựng Web với người sử dụng đầu cuối. Cty đã từng bước hiện đại hóa trình độ quản lý, vận hành hệ thống cấp nước; Quản lý vận hành ổn định, đảm bảo chất lượng, an toàn, tiết kiệm chi phí sản xuất và thực hiện chương trình chống thất thoát, thất thu hiệu quả.
“Tối ưu hóa quản lý vận hành hệ thống cấp nước” đã thực sự trở thành công cụ hữu hiệu trong quản lý vận hành hệ thống cấp nước, giảm chi phí sản xuất, thực hiện chương trình thất thoát, thất thu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh góp phần ổn định tài chính của Cty nước Hải Dương, tạo nguồn để phát triển và mở rộng dịch vụ cung cấp nước sạch. Nguồn nước sạch và dịch vụ cấp nước của Cty không những đáp ứng đủ cho nhu cầu của các đô thị, các khu, cụm công nghiệp mà còn cung cấp được cho hơn 40 xã nông thôn (tương đương 160 nghìn dân) trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
Hiện nay, nhận thức được lợi ích đạt được của việc “Tối ưu hóa quản lý vận hành Hệ thống cấp nước” Cty KDNS Hải Dương đã chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ áp dụng được cho một số Cty cấp nước như: Sơn La, Phú Thọ, Nam Định, Thái Bình, Quảng Ninh… và các tỉnh thành khác trên cả nước nhằm góp phần đạt mục tiêu giảm tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch xuống dưới 15% vào năm 2025.

Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2013


Triển khai Thông tư số 09/2012/TT-BXD về quy định sử dụng VLXD không nung: Những tín hiệu tích cực

26/04/2013 16:00
Ngày 28/11/2012, Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư số 09/2012/TT-BXD về việc Quy định sử dụng vật liệu xây không nung (VLXKN) trong các công trình xây dựng. Theo đó, các công trình được đầu tư bằng nguồn vốn Nhà nước bắt buộc phải sử dụng VLXKN theo lộ trình. Tại các đô thị loại III trở lên phải sử dụng 100% VLKN kể từ ngày 15/01/2013. Tại các khu vực còn lại phải sử dụng tối thiểu 50% VLKN kể từ ngày có hiệu lực đến hết năm 2015, sau năm 2015 phải sử dụng 100%.
Thông tư 09 được ban hành đã khẳng định thêm quyết tâm của Bộ Xây dựng và Chính phủ trong việc thúc đẩy sự phát triển của VLXKN. Tuy nhiên, để các quy định của Thông tư thực sự đi vào đời sống cần phải có thời gian. Dưới đây là một số ý kiến của nhà quản lý, nhà đầu tư và người sử dụng về các quy định của Thông tư 09.
Ông Lê Văn Tới - Vụ trưởng Vụ VLXD (Bộ Xây dựng):
Khi Thông tư 09 mới ban hành, một số địa phương cho rằng những quy định trong Thông tư quá đột ngột. Nhưng trên thực tế, Chương trình phát triển VLXKN đến năm 2020 đã được Thủ tướng phê duyệt từ ngày 28/4/2010 tại Quyết định 567/QĐ-TTg. Ngày 16/4/2012, Thủ tướng ban hành Chỉ thị số 10/CT-TTg về việc tăng sử dụng VLXKN. Như vậy kể từ khi Chính phủ khởi động chương trình phát triển VLXKN tới thời điểm Thông tư 09 ra đời, xã hội đã có 3 năm để “thấm nhuần” chủ trương này. Trong quãng thời gian đó, Bộ Xây dựng cũng đã hoàn thiện các tiêu chuẩn sản phẩm, hướng dẫn sử dụng gạch không nung (GKN), đồng thời ban hành định mức dự toán để sử dụng loại vật liệu này trong các công trình.
Mặc dù mới ra đời nhưng Thông tư 09 đã cho thấy tín hiệu tích cực. Các địa phương đã vạch ra lộ trình cụ thể để đưa VLXKN vào sử dụng đồng thời hạn chế việc xây dựng bằng gạch đất sét nung. Bên cạnh đó, do chưa đủ nguồn cung nên một tỉnh ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên đã có văn bản đề nghị Bộ Xây dựng cho phép lùi thời gian thực hiện và đã được Bộ chấp thuận.
Tuy nhiên, do Thông tư 09 có hiệu lực từ ngày 15/01/2013 mà những công trình sử dụng vốn Nhà nước xây dựng trong năm nay đã được phê duyệt từ những năm trước nên trong thời gian tới, những công trình này vẫn thực hiện theo đúng kế hoạch. Nhà nước chỉ khuyến khích chủ đầu tư chuyển đổi từ gạch nung sang GKN. Bắt đầu từ 15/01/2013, những công trình mới (thuộc đối tượng trong Thông tư 09), đang trong quá trình lập dự án, thiết kế và tính dự toán, định mức dự án bắt buộc phải đưa vào yếu tố sử dụng VLXKN.
Ông Đặng Việt Lê - Chủ tịch HĐQT Cty CP Gạch Khang Minh:
Hiện tại, Cty CP Gạch Khang Minh đang chủ yếu cung cấp sản phẩm ở những công trình như chung cư cao tầng, trường học, nhà máy, KCN... với nguồn vốn đầu tư tư nhân hoặc vốn đầu tư nước ngoài. Những công trình này không nằm trong phạm vi hiệu lực của Thông tư 09. Tuy nhiên, Thông tư 09 vẫn có những tác động tích cực ở một số mặt như các sở, ban ngành, DN và cá nhân đã chủ động liên hệ với gạch Khang Minh để tìm hiểu về sản phẩm GKN xi măng cốt liệu của Cty. Tại nhiều tỉnh như Nam Định, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Phòng…, GKN xi măng cốt liệu đã được niêm yết trên công bố giá do liên Sở Xây dựng - Tài chính phát hành. Đây là tài liệu có tính pháp lý trong việc định hướng lập dự toán, thanh quyết toán giá sản phẩm đối với các công trình vốn Nhà nước.
Các Cty tư vấn thiết kế cũng đón nhận rất tích cực thông tin về GKN xi măng cốt liệu và đã tìm hiểu, đánh giá các phương án, lập hồ sơ dữ liệu để chuẩn bị cho việc thiết kế các công trình mới. Tích cực nhất có lẽ là từ các nhà thầu xây dựng khi nhiều nhà thầu đã tự chuyển đổi gói thầu cũ từ gạch đất sét nung sang GKN xi măng cốt liệu. Thời gian tới chúng tôi hy vọng và rất tin tưởng Thông tư 09 sẽ được áp dụng nhanh và rộng.
Ông Phan Như Dũng - Phó trưởng BQLDA khu chung cư cao tầng Sông Nhuệ, Cty TNHH Khải Hưng:
Theo tôi, những quy định về việc sử dụng GKN được đưa ra trong Thông tư 09 là rất đúng đắn, bởi đây là loại vật liệu thân thiện với môi trường. Chưa nói đến chất lượng hay giá thành sản phẩm, điều chúng ta có thể nhận thấy ngay là sự xuất hiện của GKN giải quyết một số vấn đề của ngành gạch nung trước đó như bảo vệ đất nông nghiệp, góp phần đảm bảo an ninh lương thực…
Riêng với Cty CP Khải Hưng, mặc dù là DN với 100% vốn tư nhân, tức không nằm trong những đối tượng bắt buộc trong Thông tư 09, nhưng do nhận thấy những tính năng ưu việt của sản phẩm này, chúng tôi đã đưa GKN vào sử dụng tại công trình của mình từ cách đây 2 năm.
Qua xem xét đồng thời một số loại GKN khác nhau, năm 2012 chúng tôi lựa chọn GKN xi măng cốt liệu cho công trình khu chung cư cao tầng Sông Nhuệ do Cty làm chủ đầu tư. Loại gạch này có cường độ chịu lực tốt, độ hút ẩm chỉ bằng ½ so với gạch đỏ. Hơn thế, giống như gạch đỏ, gạch XMCL không đòi hỏi sử dụng vữa chuyên biệt, mà sử dụng vữa thông thường, quá trình bảo dưỡng tường xây gạch XMCL cũng rất đơn giản. Thống kê từ thực tiễn công trường cho thấy, chi phí cho gạch XMCL trong công trình rẻ hơn gạch đất sét nung từ 10 - 15%.

Biến xỉ thép thành vật liệu thân thiện môi trường

26/04/2013 16:00
Lâu nay mọi người vẫn nghĩ xỉ thép là chất thải công nghiệp gây ô nhiễm môi trường nên cần phải chôn lấp. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cấu trúc và các thành phần hoá học của nó, Cty TNHH Vật liệu Xanh (Bà Rịa - Vũng Tàu) nhận thấy có thể biến chất thải này thành các loại vật liệu xây dựng xanh như làm cốt liệu bêtông; đất đá san lấp nền móng yếu; làm cọc chống lún thay cho cọc cát; làm bờ đê bao chống ngập úng, xói mòn do nước biển; làm nguyên liệu trộn với nhựa đường; làm bêtông Asphalt trải đường…
Từ hiệu quả kinh tế….
Để biến một chất thải rắn như xỉ thép được nung luyện trong lò điện hồ quang ở nhiệt độ 1.6000C thành vật liệu xanh có ích cho môi trường, Cty TNHH Vật liệu Xanh đã phải dày công nghiên cứu và vất vả tiến hành nhiều cuộc thí nghiệm mới cho ra được các loại vật liệu phục vụ cho các công trình xây dựng khác nhau. Theo ông Trương Hoàng Nguyễn - Giám đốc Cty cho biết: Xỉ thép có các thành phần như FeO, CaO, SiO2 và các Oxit khác như MgO, Al2O3, MnO, TiO2… gần giống nham thạch núi lửa. Sau khi qua tái chế bằng công nghệ phù hợp do Cty TNHH Vật liệu Xanh nghiên cứu, triển khai, xỉ thép được xem như là “đá nhân tạo - Ecoslag” với chất lượng tin cậy có thể thay thế đá tự nhiên và mang lại rất nhiều lợi ích cho công trình và chủ đầu tư. Từ kết quả thực nghiệm và các nghiên cứu khoa học cùng với những dữ liệu thực tế thu thập tại công trường đã chứng minh được sự ưu việt của đá Ecoslag so với nguyên liệu đá tự nhiên. Sự nổi trội đó biểu hiện qua các tiêu chí định lượng như: Tiết kiệm chi phí hơn, thời gian thi công nhanh hơn (phù hợp cho mọi điều kiện thời tiết và địa hình), bền vững hơn (rắn chắc hơn đá tự nhiên) và quan trọng nhất là tiết kiệm và giúp bảo vệ nguồn tài nguyên quốc gia.
Một trong những đặc điểm vượt trội của xỉ thép là khả năng hút nước cao gấp 3 lần so với đá tự nhiên, có cấu trúc tổ ong và độ rỗng cao hơn đá tự nhiên. Với tính chất này, xỉ thép sau khi qua tái chế bằng công nghệ của Cty Vật liệu Xanh sẽ cho ra sản phẩm đá nhân tạo thay cho đá tự nhiên làm nền hạ công trình hay các lớp móng đường giao thông hoặc làm nền móng kho bãi, nhà xưởng, gia cố mặt bằng, bảo vệ các công trình thủy lợi… Đá nhân tạo được làm từ xỉ thép có độ cứng, độ ma sát cao, có khả năng chống phân mảnh và chịu đựng tốt trong điều kiện thời tiết xấu hơn đá tự nhiên. Do có cấu trúc tổ ong và hình tròn nên khi sử dụng đá Ecoslag làm cốt liệu làm đường, bê tông Asphalt sẽ cho kết cấu tốt hơn so với cốt liệu đá tự nhiên. Đặc biệt, đá Ecoslag còn có thể thi công được trong mùa mưa nên công trình không bị gián đoạn, nhờ vậy tiến độ thi công đảm bảo, từ đó giảm được chi phí hơn so với sử dụng đá tự nhiên.
Ngoài ra, trong xỉ thép còn có nhiều khoáng vi lượng, gốc vôi có thể dùng để cải tạo đất, phục hồi môi trường. Mặc dù có nhiều hiệu quả như vậy nhưng giá thành vật liệu xây dựng được tái chế từ xỉ thép chỉ bằng 50 - 70% so với đá tự nhiên. Ngày nay, đá Ecoslag đã được các nước tiên tiến như Mỹ, Canada, Úc, Nhật Bản, Thái Lan và Trung Quốc sử dụng rộng rãi để xây dựng các công trình đòi hỏi tính bền vững cao như: Sân bay, cầu cảng, sân vận động, nhà cao tầng, đường xa lộ giao thông, đập chắn sóng và các công trình xử lý nước thải có quy mô lớn.
… Đến thân thiện môi trường
Theo kết quả phân tích của Viện Công nghệ hóa học thực hiện tháng 6/2011 (phương pháp phân tích theo Cục bảo vệ môi trường Mỹ) về thành phần nguy hại của xỉ thép (lấy mẫu tại Nhà máy thép Phú Mỹ và Nhà máy Thép Việt - Bà Rịa Vùng Tàu) cho thấy, không phát hiện các thành phần kim loại nặng như chì, thủy ngân, bạc, cadimi, niken… trong xỉ thép. Còn các thành phần khác có phát hiện nhưng nhỏ hơn nhiều so với giới hạn cho phép như asen kết quả phân tích là 0,003mg/l so với giới hạn cho phép 1mg/l, kẽm phát hiện 0,02mg/l so với giới hạn cho phép là 2mg/l… Điều này chứng tỏ xỉ thép tại các nhà máy luyện thép trên địa bàn tỉnh BR-VT không phải là chất thải nguy hại mà chỉ là chất thải thông thường nên có thể tận dụng làm sản phẩm cho vật liệu xây dựng nếu có cường độ hóa rắn không thấp hơn mác 100 theo đúng hướng dẫn tại QCVN 07:2009/BTNMT. Quy chuẩn này cũng hoàn toàn phù hợp với TCVN 6705:2009 - phân loại chất thải rắn, quy định xỉ thép là chất thải thông thường, cũng như các kết quả đánh giá xỉ lò điện hồ quang trên thế giới.
So sánh thành phần hóa học của xỉ thép với xi măng thì Ôxít Canxi (CaO) trong xỉ thép chiếm tới 44,3% trong khi xi măng 64,2%; SiO2 trong xỉ thép chiếm 13/8%, còn xi măng là 22%; tương tự Al2O3 trong xỉ thép là 1,5% còn xi măng là 5,5%.... Một trong những thành phần chính của xỉ thép là khoáng Calcium Silicates (2CaO.SiO2, C2S và 3CaO.SiO2, C3S). Đây là khoáng chất chính trong thành phần của xi măng Portland, hợp chất bao gồm các khoáng Tricalcium Silicate (C3S) Dicalcium Silicate (C2S) và Tricalcium Aluminate (C3A). Ngoài ra, thành phần của xỉ thép còn có các khoáng Brownmillerite, Mayenite là một loại khoáng chất có trong đá vôi dùng cho ngành công nghiệp sản xuất xi măng.

Công trình kho ngoại quan BACONCO
tại KCN Phú Mỹ 1, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Dẫn chúng tôi tham quan nhà máy, ông Trương Hoàng Nguyễn tiếp tục cho biết, mục tiêu của Cty là hướng tới môi trường bền vững nên sản phẩm sau khi tái chế đều phải đảm bảo các chỉ tiêu hóa lý mới cho xuất xưởng. Xỉ thép được nung ở nhiệt độ cao nên hầu hết các kim loại nặng nếu có trong thép phế liệu đều thăng hoa theo khí thải hoặc hủy diệt. Do vậy phần lớn xỉ thép được xem là hoàn toàn không có hại với môi trường, thậm chí cả với nguồn nước ngầm. Bởi vậy động thực vật có thể sinh sống ngay trên bãi xỉ thép mà không ảnh hưởng gì tới hệ sinh thái. Minh chứng cho điều này là công viên Anger Park’s của Đức được xây dựng từ bãi chứa xỉ thép ở Duisburg, hay công viên Pháo Đài Loan nằm ở phía Bắc Thượng Hải - Trung Quốc…
Ngoài ra, khi quan sát bằng mắt thường lúc nhà máy đang hoạt động nghiền sàng xỉ thép thì không thấy có bụi, còn tiếng ồn thì vừa phải, khác hoàn toàn với các mỏ đá khi đang khai thác rất bụi và ồn. Đây cũng là một minh chứng cho thấy xỉ thép rất thân thiện với môi trường.
Theo đà phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật, trong tương lai người ta có thể ứng dụng xỉ thép vào giải pháp công nghệ phục vụ cho nhiều ngành công nghiệp khác nhau. Với công suất 1.000 tấn Ecoslag/ngày, Cty Vật liệu Xanh có thể đáp ứng cho việc thi công các công trình đòi hỏi cao về tiến độ, chất lượng và sự chuyên nghiệp.
Xỉ thép sau khi tái chế sẽ là nguồn nguyện liệu có thể thay thế được cho đá tự nhiên đang dần bị cạn kiệt và nó sẽ trở thành một loại vật liệu xanh trong xây dựng. Cty TNHH Vật liệu Xanh có trụ sở ngay tại KCN Phú Mỹ 1, huyện Tân Thành tỉnh BR-VT là DN đầu tiên của Việt Nam đầu tư vào lĩnh vực tái chế xỉ thép bằng công nghệ hiện đại thân thiện với môi trường được các cơ quan có thẩm quyền cấp phép.
Các công trình sử dụng xỉ thép: Nhà máy nhôm định hình - Cty TNHH Nhôm Toàn Cầu (Australia) KCN Mỹ Xuân B1-Conac; Nền nhà máy thép Pomina 3; Nhà máy sản xuất khí công nghiệp Phú Mỹ (Việt-Nhật); Nhà máy thép đặc biệt Posco SS Vina (Hàn Quốc); Kho ngoại quan Baconco 4ha tại KCN Phú Mỹ 1 (Pháp); Trạm xử lý nước thải KCN Mỹ Xuân B1-CONAC; Kho than Quảng Ninh - Chi nhánh Long Thành, Đồng Nai; Nhà máy sản xuất cần cẩu Metaco (Nhật) KCN Phú Mỹ 1; Nhà máy thép Fuco (Đài Loan)...

VIGLACERA ban hành bộ khung tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm gạch ngói đất sét nung

26/04/2013 16:47
Tổng công ty Viglacera đã công bố quyết định số 71/TCN-GN ĐSN ban hành bộ tiêu chuẩn cơ sở cho sản phẩm gạch ngói đất sét nung năm 2013, bao gồm: Tiêu chuẩn Viglacera Gạch ốp lát Clinker; Tiêu chuẩn Viglacera Gạch đặc đất sét nung; Tiêu chuẩn Viglacera Gạch ốp lát Cotto đùn dẻo; Tiêu chuẩn Viglacera Gạch gốm ốp lát đùn dẻo; Tiêu chuẩn Viglacera Gạch rỗng đất sét nung; Tiêu chuẩn Viglacera Ngói đất sét nung.

Theo Tiêu chuẩn chất lượng của Viglacera các sản phẩm gạch ngói đất sét nung sẽ có độ hút nước thấp hơn; thời gian xuyên nước dài hơn; cường độ kháng uốn, kháng nén cao hơn; dung sai kích thước nhỏ hơn; các khuyết tật ngoại quan ít hơn.
Tiêu chuẩn này áp dụng cho tất cả các sản phẩm gạch ngói đất sét nung và được Tổng công ty Viglacera ban hành nội bộ dùng để kiểm soát chất lượng sản phẩm thương hiệu Viglacera. So với Tiêu chuẩn chất lượng TCVN, hầu hết các tiêu chí của Viglacera đều yêu cầu ngặt nghèo hơn ở các điểm: Độ hút nước thấp hơn; thời gian xuyên nước dài hơn; cường độ kháng uốn, kháng nén cao hơn; dung sai kích thước nhỏ hơn; các khuyết tật ngoại quan ít hơn.
Bộ tiêu chuẩn cũng quy định phạm vi áp dụng; tài liệu viện dẫn; hình dạng và kích thước cơ bản; yêu cầu kỹ thuật; phương pháp thử; ghi nhãn, bao gói, bảo quản và vận chuyển; triển khai thực hiện đối với từng loại sản phẩm gạch ngói đất sét nung.
Việc triển khai thực hiện bộ khung tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm gạch ngói đất sét nung sẽ tiến hành tại các đơn vị trong Tổng công ty sản xuất sản phẩm thuộc phạm vi điều chỉnh của các tiêu chuẩn này. Theo đó, các đơn vị sẽ thực hiện theo tiêu chuẩn nội bộ ban hành và triển khai theo Phụ lục đã định rõ; định kỳ hàng tháng Viện Nghiên cứu và Phát triển Viglacera phối hợp các đơn vị trong Tổng công ty sản xuất sản phẩm thuộc phạm vi điều chỉnh của tiêu chuẩn này hoặc sản phẩm tương tự được phép gắn nhãn thương hiệu Viglacera lấy mẫu sản phẩm kiểm tra theo Phụ lục; ban triển khai và quản lý chất lượng sản phẩm Gạch ốp lát Clinker, Gạch đặc đất sét nung, Gạch ốp lát Cotto đùn dẻo, Gạch gốm ốp lát đùn dẻo, Gạch rỗng đất sét nung, Ngói đất sét nung tổ chức kiểm tra, giám sát và đánh giá định kỳ hàng tháng đối với chất lượng sản phẩm theo Tiêu chuẩn này; các hoạt động kiểm tra, giám sát đơn vị theo Quy chế sẽ được thực hiện theo quy định.
Việc ban hành bộ khung tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm gạch ngói đất sét nung là bước hoà nhập tiêu chuẩn của Viglacera với các nước mà hiện TCT đang tiến hành xuất khẩu sản phẩm tạo điều kiện thuận lợi trong thương mại và phát triển thương hiệu các sản phẩm Viglacera trong khu vực và trên thế giới. Ngoài ra, với việc tiêu chuẩn hoá các sản phẩm gạch ngói đất sét nung Viglacera đang hướng tới mục tiêu giảm bớt tất cả các loại chi phí: nguyên vật liệu, thời gian, nhân lực để làm tăng lợi nhuận cho Tổng công ty theo xu hướng sản xuất hiện đại đang được áp dụng tại các nước tiên tiến hiện nay.

Thứ Ba, 23 tháng 4, 2013

Ba con sông lớn ở Hải Phòng đều đang bị ô nhiễm


- Ba con sông lớn ở Hải Phòng đều đang bị ô nhiễm
Là ba con sông lớn chảy qua địa bàn thành phố Hải Phòng, cungcấp nước tưới tiêu cho hàng trăm nghìn ha đất canh tác và nước thô cho các nhàmáy nước của thành phố, song nguồn nước của sông Đa Độ, sông Giá và sông Rế đềuđang bị ô nhiễm. Theo kết quả quan trắc mới nhất của Sở TN&MT, trong tổngsố 30 mẫu lấy tại sông Đa Độ chỉ có 47% mẫu đạt chỉ tiêu cấp nước sinh hoạt vàcó tới 10% mẫu bị ô nhiễm nặng. Trong ba con sông, sông Đa Độ được đánh giáđang ô nhiễm nặng nhất. Hiện, trên hệ thống sông Đa Độ có tới 120 cơ sở côngnghiệp và 50 làng nghề, 11 Bệnh viện, gần 60 Trạm y tế xã đang xả nước thảichưa qua xử lý ra sông. Ngoài ra, còn có hàng loạt khu dân cư tập trung đang xảnước thải sinh hoạt ra khu vực lòng sông. Theo ông Nguyễn Văn Chọn - Giám đốcCông ty Khai thác công trình thủy lợi Đa Độ - đơn vị quản lý, khai thác sông,dòng sông đang bị biến dạng và chất lượng nước ngày càng ô nhiễm nghiêm trọng.Do nhiều quy định chồng chéo nên việc quản lý, khai thác sông của các đơn vị bịhạn chế.  Cùng với đó, việc quy hoạch,vận hành của hàng chục cơ sở công nghiệp, sản xuất kinh doanh và khu dân cưchưa hoàn thiện đang trở thành nguồn gây ô nhiễm trực tiếp cho dòng sông, điểnhình như 5 doanh nghiệp ở cụm công nghiệp đường 10 (xã Quốc Tuấn, huyện AnLão), các Nhà máy thép, hệ thống nước thải từ khu dân cư thị trấn Ruồn và Bệnhviện Đa khoa An Lão, Bệnh viện Lao và Phổi Hải Phòng, khu làng nghề thủ côngPhù Lưu, nghĩa trang Tràng Minh (quận Kiến An)... Cùng với sông Đa Độ, sông Rếvà sông Giá cũng đang bị ô nhiễm. Cụ thể, trong tổng số 36 mẫu lấy tại sông Rếchỉ có 53% đạt chỉ tiêu cấp nước sinh hoạt, nhưng phải có biện pháp xử lý phùhợp và có tới 14% mẫu bị ô nhiễm nặng. Đối với sông Giá có phần khả quan hơnkhi trong tổng số mẫu nước lấy quan trắc có 72% mẫu sử dụng tốt cho mục đíchnước sinh hoạt. Các sông Giá, Rế, Đa Độ là nguồn nước mặt chính cung cấp chosinh hoạt, sản xuất nông nghiệp và công nghiệp của thành phố Hải Phòng. Tổngdiện tích mặt nước của ba sông này khoảng hơn 9,8ha với trữ lượng nước khoảng40 triệu m3. Riêng sông Đa Độ có chiều dài gần 50km, chảy qua 5quận, huyện của Hải Phòng. Ngoài các chức năng cân bằng sinh thái, dự trữ nướcngọt, tưới tiêu, sông còn là nguồn nước cung cấp cho các nhà máy nước sạch củathành phố như Nhà máy nước Cầu Nguyệt, Sông He (công suất 80.000 m3/ngàyđêm); Nhà máy nước thô cho khu công nghiệp Đình Vũ (công suất 20.000 m3/ngàyđêm) và 35 Nhà máy nước sạch nông thôn khác. Trong tương lai gần, để đáp ứng tốt hơn nhucầu nước sạch của người dân thành phố, nguồn nước sông Đa Độ sẽ tiếp tục cungcấp cho Nhà máy nước lớn Hưng Đạo có công suất lên đến 130.000 m3/ngàyđêm. Để bảo vệ các dòng sông, theo kiến nghị của các ngành chức năng, thành phốcần sớm lập Ban chỉ đạo cấp nước an toàn, hoàn chỉnh quy hoạch tài nguyên nước,thực hiện cắm mốc chỉ giới nguồn nước sông, quy hoạch đầu tư hệ thống hạ tầngkỹ thuật thu gom xử lý chất thải, nước thải, giao thông thủy, tăng cường truyềnthông nâng cao nhận thức cộng đồng…

Thứ Năm, 18 tháng 4, 2013


Nâng cao chất lượng dịch vụ cấp nước khu du lịch Đồ Sơn

Là đơn vị cung ứng nước sạch cho phía nam quận Dương Kinh (đường 353) và quận Đồ Sơn, Chi nhánh cấp nước Hải Phòng 6 thuộc Công ty TNHHMTV Cấp nước Hải Phòng tập trung thực hiện nhiều giải pháp bảo đảm chất lượng dịch vụ cấp nước tốt nhất cho trọng điểm du lịch của quốc gia và thành phố thiết thực hưởng ứng Năm Du lịch quốc gia Đồng bằng sông Hồng-Hải Phòng 2013 và Lễ hội Hoa phượng năm nay.
Đầu tư nâng cao chất lượng nước  
Từ một trạm cấp nước thô, cùng với tốc độ đô thị hóa, đến nay, Trạm cấp nước sông He được nâng cấp trở thành trạm cấp nước sạch, cùng với Nhà máy nước Đồ Sơn thuộc Chi nhánh cấp nước Hải Phòng 6 đảm nhiệm đáp ứng nhu cầu sử dụng nước cho 9100 khách, trong đó có 8700 hộ dân, còn lại là tổ chức.
Giám đốc Chi nhánh cấp nước Hải Phòng 6 Bùi Anh Tuấn cho biết, do chất lượng nước sông He bị ô nhiễm do nước thải sinh hoạt của các hộ dân sinh sống hai bên bờ sông, trong khi khu vực Đồ Sơn sẽ diễn ra nhiều hoạt động lớn trong Năm Du lịch quốc gia Đồng bằng sông Hồng-Hải Phòng 2013, lượng khách tăng đột biến trong dịp lễ hội này cũng như vào dịp hè nói chung, kéo theo nhu cầu sử dụng nước tăng cao. Do vậy, để đáp ứng nhu cầu sử dụng nước và nâng cao chất lượng nước cấp, tại Trạm sông He, từ đầu năm đến nay, Công ty Cấp nước lắp đặt hệ thống châm vôi, sửa chữa hệ thống hòa trộn phèn, hòa trộn vôi để tăng hiệu quả xử lý phèn. Sửa chữa, nâng công suất bể lọc từ 150m3 lên 250m3/giờ nhằm nâng công suất của trạm. Nạo vét bùn, cát hồ lắng trạm sông He để nâng chất lượng nước sau lắng và chất lượng nước phát. Đặc biệt, do việc thi công đường ô tô cao tốc Hà Nội-Hải Phòng, phải thu hẹp dòng chảy, gây bùn đọng phía ngoài họng thu nước, nên đơn vị chủ động hút bùn chung quanh họng thu nước. Đồng thời, làm việc với Công ty thủy nông Đa Độ khơi thông dòng chảy sông He. Lắp đặt biến tần cho các máy bơm nước sạch Trạm sông He để vận hành cấp nước phù hợp với tiêu thụ, áp lực ngoài mạng lưới. Tiến hành lắp đặt hệ thống cấp nước cho nhân dân tổ dân phố Tân Lập, phường Tân Thành; tổ dân phố số 3, 5, phường Hòa Nghĩa cùng quận Dương Kinh. Xả rửa các tuyến ống cấp 2, cấp 3 thuộc mạng lưới đường 353 từ Trạm cấp nước sông He đến Đồ Sơn. Thông rửa tuyến ống chuyên tải D400 sông He-Đồ Sơn. Mặt khác, thường xuyên kiểm tra chất lượng nước cấp trên mạng lưới, xử lý kịp thời các sự cố xảy ra.
Tại Nhà máy nước Đồ Sơn và mạng cấp nước khu vực Đồ Sơn, Công ty thông rửa toàn bộ tuyến ống trục từ D250 đến D150, nâng cao khả năng truyền tải, áp lực và chất lượng nước cấp; xả rửa các tuyến ống cấp 3 sau thông ống và thường xuyên kiểm tra chất lượng nước cấp trên mạng lưới. Sửa chữa, lắp đặt nâng công suất tổ máy bơm dự phòng số 3, trạm 1 Đồ Sơn từ 250m3/giờ lên 350m3/giờ bảo đảm an toàn cấp nước.
Công nhân Nhà máy nước Sông He kiểm tra hệ thống bể lọc nước cung cấp nước phục vụ khu vực quận Dương Kinh và Đồ Sơn.
Công nhân Nhà máy nước Sông He kiểm tra hệ thống bể lọc nước cung cấp nước phục vụ khu vực quận Dương Kinh và Đồ Sơn.
Cam kết về chất lượng nước
Trong quá trình sửa chữa nâng công suất bể lọc tại Trạm sông He, ngày 20-3 vừa qua, công ty phải tạm dừng trạm bơm này và đưa nước từ Hải Phòng ra để phục vụ cấp nước dọc đường 353. Ông Tuấn cho biết, do trong đường ống đóng cặn, nên khi cấp nước trở lại, áp lực và vận tốc lớn trong đường ống sục cặn lên, khiến chất lượng nước cấp cho nhân dân tổ 3B, 3C phường Hải Thành bị đục và có mùi khác thường. Nhận được thông tin của nhân dân, Công ty Cấp nước trực tiếp kiểm tra, chỉ đạo các đơn vị nghiệp vụ khẩn trương tìm nguyên nhân. Chi nhánh dừng cấp nước khu vực này, tiến hành rửa xả đường ống, kịp thời cấp nước trở lại ngày hôm sau. Lãnh đạo công ty và chi nhánh tiến hành đối thoại với các hộ dân và chính quyền xã, cam kết không để xảy ra tình trạng trên. Qua cuộc đối thoại, lãnh đạo chi nhánh cũng thông tin về các biện pháp bảo đảm chất lượng nước cấp trong mùa hè năm nay cũng như các năm tới, trong đó, duy trì kiểm tra chất lượng nước phát trên hệ thống để phát hiện và xử lý kịp thời sự cố. Tinh thần nghiêm túc của một đơn vị cung cấp dịch vụ cấp nước có uy tín, nhận được sự chia sẻ của người dân trong khu vực bị ảnh hưởng. Công ty xác định đây cũng là những kinh nghiệm, bài học thiết thực để không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ cấp nước.