Thứ Năm, 19 tháng 9, 2013

Bình Dương: Xử lý rác để bảo vệ môi trường

Xử lý rác thải là nhu cầu không thể thiếu để phát triển đô thị, bảo vệ đời sống người dân trước bệnh tật, ổn định an sinh xã hội. Với tinh thần đó, Cty TNHH MTV Cấp thoát nước - Môi trường Bình Dương (Biwase) đã mạnh dạn đầu tư các thiết bị tái chế chuyên sâu hạn chế tối đa việc chôn lấp rác thải.
Rác sinh hoạt được sản xuất ra phân compost, NPK phục vụ cây trồng cho địa phương và các tỉnh lân cận. Nước rỉ rác được xử lý triệt để đạt tiêu chuẩn loại A, rác công nghiệp, công nghiệp nguy hại chủ yếu là phối trộn để đốt như giẻ lau, bùn thải các nhà máy xử lý nước thải, cao su đế giày, rác, cặn sơn...
Sau khi đốt, xỉ tro được phối trộn vào bê tông tươi, gạch tự chèn, giải quyết triệt để rác sau khi xử lý thành những vật liệu xây dựng có ích như bê tông tươi, gạch tự chèn, gạch 4 lỗ...
Từ những nguồn rác thải tưởng chừng bỏ đi nhưng sau khi tái chế chúng lại trở thành những sản phẩm hữu ích phục vụ đời sống con người. Quan trọng hơn, tái chế rác là giải quyết được bài toán về ô nhiễm môi trường và phát triển bền vững.
Ông Nguyễn Văn Thiền, Tổng giám đốc Biwase cho biết mục tiêu của dự án là: Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững khu kinh tế trọng điểm Nam Bình Dương; Tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế một cách toàn diện, thu hút đầu tư trong và ngoài nước; Nâng cao hiệu quả sử dụng đất và nước cùng các tài nguyên khác; Việc xây dựng Khu liên hợp xử lý chất thải rắn Nam Bình Dương để bảo vệ môi trường và con người của địa phương do những tác động nguy hại từ chất thải rắn đang tồn tại trong địa phương.
Một khu liên hợp xử lý chất thải với những kỹ thuật và công nghệ thích hợp đảm bảo an toàn về mặt môi trường và khả thi về mặt kinh tế được đã đầu tư xây dựng, quản lý, vận hành đạt hiệu quả cao trong suốt quãng thời gian hoạt động của dự án.

Khu xử lý chất thải rắn Nam Bình Dương.
Được biết, khu xử lý chất thải rắn Nam Bình Dương đi vào hoạt động từ cuối 2004 chuyên vận chuyển, xử lý chất thải sinh hoạt, công nghiệp và chất thải nguy hại, đồng thời sản xuất phân compost phục vụ cây công nghiệp.
Dự án có tổng vốn đầu tư trên 16,6 triệu Euro do Biwase làm chủ đầu tư từ nguồn vốn vay ODA của Chính phủ Phần Lan (42,76%), còn lại là vốn đối ứng trong nước.
Đến nay, 90% lượng rác đô thị, rác từ các khu công nghiệp và các cụm sản xuất trên địa bàn khu vực Nam Bình Dương được thu gom kịp thời chuyển khỏi khu vực phát sinh đưa đi xử lý ở nhà máy xử lý rác. Các đô thị trong chùm đô thị Nam Bình Dương về cơ bản được coi là chùm đô thị sạch do không còn bị ô nhiễm từ rác.
Nhà máy xử lý rác thải thành phân Compost công suất 420 tấn/ngày là dự án thành phần trong khu xử lý chất thải rắn Nam Bình Dương được khởi công xây dựng tháng từ 12/2011 với tổng vốn đầu tư 6,7 triệu Euro.
Công trình chính thức đi vào hoạt động ngày 20/9 tới sẽ góp phần hoàn thiện các công đoạn khép kín trong Khu xử lý rác thải Nam Bình Dương để ngăn ngừa và tiến tới loại trừ tình trạng ô nhiễm môi trường do rác thải trên địa bàn tỉnh Bình Dương và các khu vực lân cận.
Nói về những bài học kinh nghiệm rút ra trong quá trình đầu tư xây dựng dự án, ông Lê Văn Gòn, Phó tổng giám đốc Biwase chia sẻ: Trong quá trình thực hiện dự án gặp rất nhiều khó khăn vì đây là một dự án có quy mô phức tạp. Do sử dụng vốn ODA Phần Lan nên mọi việc phải thông qua Đại sứ quán nhưng ngôn ngữ khác biệt vì vậy Đại sứ phải thuê tư vấn Phần Lan thẩm tra mới trả lời.
Hơn nữa, quy trình quản lý đầu tư xây dựng cơ bản ở 2 quốc gia cũng khác nhau nên mất thời gian để hiểu nhau. Từ đó dẫn đến dự án triển khai chậm, kinh phí dự án phải điều chỉnh nhiều lần do chênh lệch tỷ giá.
Tuy nhiên, bằng kinh nghiệm, tinh thần ham học hỏi sáng tạo trên cơ sở luật pháp Biwase đã nỗ lực hoàn thành dự án, đảm bảo tiến độ đề ra và kết quả dự án đã hoàn thành phát huy hiệu quả.
Để thực hiện được một dây chuyền khép kín trong việc xử lý tái chế rác thải, đội ngũ CBCNV khu liên hợp được đào tạo bài bản, cùng trang thiết bị máy móc phù hợp nên công tác sản xuất luôn ổn định và hiệu suất cao.
Khuôn viên khu xử lý rác được quy hoạch hợp lý từng khu chức năng khang trang sạch đẹp, đúng nghĩa là khu liên hợp tái chế rác. Mùi phát sinh trong khu liên hợp không đáng kể, tất cả xe vận chuyển rác ra khỏi khu liên hợp đều phải rửa sạch, đây là điều bắt buộc. Bằng những việc làm có trách nhiệm với môi trường nên Khu xử lý chất thải Nam Bình Dương đã nhận được nhiều lời ngợi khen.

Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2013

Nước ngầm Hà Nội 'nhiễm thạch tín' lên báo nước ngoài

Thạch tín (Asenic) đã thâm nhập vào nước ngầm vốn được sử dụng làm nguồn cung cấp nước sinh hoạt cho người Hà Nội, AFP dẫn nghiên cứu khoa học cho biết và cảnh báo, hiện tượng này còn xảy ra ở những nơi khác.

Nhiều hộ dân ở Hà Nội đang sử dụng nước nhiễm thạch tín. Ảnh minh họa: Hoàng Hà.
Nhiều hộ dân ở Hà Nội đang sử dụng nước nhiễm thạch tín. Ảnh minh họa: Hoàng Hà.
AFP dẫn nghiên cứu công bố trên Nature cho biết, nhóm khoa học thực hiện nhiều thử nghiệm quanh làng Vạn Phúc, Hà Đông, cách 10 km về phía đông nam trung tâm Hà Nội. Tại đây, các chuyên gia đã đo mẫu nước lấy từ các giếng nhà hộ dân ở khoảng 40 m, và thấy nồng độ nhiễm thạch tín khá cao.
Phía tây làng Vạn Phúc, các giếng nước có nồng độ thạch tín dưới 10 microgram trong một lít nước, thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Còn ở phía đông của làng, nồng độ thạch tín cao gấp 10 đến 50 lần.
Từ cuộc điều tra, nhóm khoa học nhận định, ở Vạn Phúc có hai tầng nước. Một tầng nằm trong lớp trầm tích từ khoảng 5.000 năm và nhiễm thạch tín cao. Một tầng nước an toàn khác có khoảng 12.000 năm tuổi. Nhu cầu sử dụng nước của Hà Nội ngày càng tăng cao dẫn đến tầng nước an toàn này bị khai thác quá mức khiến nước từ tầng nhiễm thạch tín và từ sông Hồng chảy vào.
Theo nhóm nghiên cứu nước nhiễm thạch tín đã tăng khoảng 120 m vào tầng nước an toàn. "Cũng may là nó không lan nhanh như chúng tôi lo sợ", giáo sư Alexander van Geen, tại ĐH Columbia ở New York (Mỹ) nói.
Tuy nhiên, các nhà khoa học cho rằng, người Hà Nội không nên quá lo về sức khỏe bởi nước ngầm trước khi đến từng hộ gia đình đã qua xử lý. Điều các nhà khoa học lo lắng là những hộ dân sử dụng nước sinh hoạt từ các giếng nhiễm độc. 
Bà Phạm Thị Kim Trang (Trung tâm Công nghệ môi trường và Phát triển bền vững, ĐH Quốc gia Hà Nội), thành viên nhóm nghiên cứu cho biết, đã có một số chương trình hỗ trợ khu vực Vạn Phúc khắc phục hiện trạng trên. "Tuy nhiên nếu mọi người trong thành phố tiếp tục khai thác nước ngầm nhiều, thì thời gian tới, vấn đề thạch tín sẽ trở nên nghiêm trọng hơn", AFP dẫn lời bà Trang nói trong thông cáo báo chí.
Bà Trang cũng lưu ý rằng, việc mở rộng để phát triển các vùng ngoại ô thành phố khiến nhiều người đào giếng và sử dụng nước chưa qua xử lý.
Năm ngoái, giáo sư Trần Hồng Côn (khoa Hóa học, ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội) cùng các đồng nghiệp công bố "bản đồ" mức độ nhiễm thạch tín trong nước ngầm và nước sinh hoạt Hà Nội từ năm 1998. Kết quả cho thấy, khoảng 30% số điểm giếng khảo sát có mức độ nhiễm thạch tín trên 0,05mg/lít, 50% mẫu nước vượt trên ngưỡng cho phép 0,01mg/lít. 
Đối với nước cấp, tức là nước ngầm đã qua xử lý tại các nhà máy nước, sau khi lấy hàng nghìn mẫu từ các nhà máy Hạ Đình, Pháp Vân, Yên Phụ, xét nghiệm đều có lượng asen vượt mức cho phép tương đối rõ, cao hơn tỷ lệ 0,01mg/lít.
Giới chuyên gia cảnh báo, thạch tín ở nồng độ cao có thể gây ra các chứng bệnh về tim mạch, gan, thận cũng như ung thư.

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2013

Tiêu chuẩn thử áp lực đường ống nước ngoài hiện trường

03/09/2013 21:49
Trong tiêu chuẩn nghiệm thu của hệ thống cấp thoát nước có quy định là: Trước khi nghiệm thu toàn tuyến ống bắt buộc phải thử áp lực đường ống. Tuy nhiên trong thực tế hiện tại chưa thấy một tiêu chuẩn nào quy định về “Thử áp lực đường ống nước ngoài hiện trường”. Hiện tại các đơn vị thi công thường thử áp lực tuyến ống theo mỗi nơi một cách mà không có tiêu chuẩn để áp dụng.
Việc thử áp lực đường ống cấp thoát nước trước khi nghiệm thu đã được quy định tại các tiêu chuẩn sau:
1. Tiêu chuẩn TCVN 4519-1988: “Hệ thống cấp thoát nước bên trong nhà và công trình - Quy phạm thi công và nghiệm thu” quy định việc thử và nghiệm thu tại Phần 4 của tiêu chuẩn này.
2. Tiêu chuẩn TCVN 2942-1993: “ống và phụ tùng bằng ngang dùng cho hệ thống dẫn chính chịu áp lực” quy định phương pháp thử tại Phần 4 của tiêu chuẩn này.

Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2013

Thứ trưởng Bộ Xây dựng Cao Lại Quang:“Chú trọng đào tạo đào tạo nguồn nhân lực ngành nước từ cơ bản đến chuyên sâu”
8/16/13 4:24 PM
Đó là chỉ đạo của Thứ trưởng Thường trực Bộ Xây dựng Cao Lại Quang tại buổi làm việc với Hội Cấp thoát nước Việt Nam về nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cũng như xây dựng các mục tiêu, giải pháp phát triển Hội trong tương lai ngày 16/8.
Theo ông Trần Quang Hưng, Phó chủ tịch Hội Cấp thoát nước Việt Nam, hiện nay Hội đang tiến hành cuộc khảo sát về nguồn nhân lực, nhu cầu đào tạo ngành nước và đánh giá của hội viên về Hội. Đây là lần đầu tiên Hội có cuộc khảo sát, đánh giá sâu rộng và toàn diện về quy mô, chất lượng, nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho ngành cấp thoát nước Việt Nam.
Tại buổi làm việc, Thứ trưởng Cao Lại Quang cho rằng: Hiện nay nhu cầu nhân lực của ngành là rất lớn và cần phân tách rõ ràng giữa cấp nước và thoát nước. Vì cấp nước nằm trong phạm vi ứng xử với nguồn tài nguyên trong khi thoát nước thuộc về lĩnh vực xử lý môi trường. Hội cần chú trọng đến việc phối hợp, tổ chức đào tạo nghiệp vụ chuyên môn, năng lực quản lý cho nhân lực ở các đơn vị thành viên, ở nhiều mức khác nhau, từ cơ bản đến chuyên sâu nhằm nâng cao năng lực ngành nước Việt Nam.
Đồng ý với ý kiến của nhiều chuyên gia cho rằng Hội cần có sự phân tích cụ thể hơn nữa về nhu cầu đào tạo nhân lực của các bộ phận khác nhau cấu thành doanh nghiệp, ông Nguyễn Tường Văn, Phó cục trưởng Cục Hạ tầng kỹ thuật, Bộ Xây dựng góp ý: Đào tạo nhân lực ngành cấp thoát nước cần gắn với vị trí, vai trò của người được đào tạo nhằm tăng hiệu quả của đào tạo đối với thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp, tránh đào tạo chung chung, dàn trải, không gắn với vai trò, nhiệm vụ của người được đào tạo.
Được biết, Hội hiện có gần 300 hội viên tập thể, hoạt động trên các lĩnh vực quản lý, tư vấn, nghiên cứu khoa học, đào tạo, xây dựng khai thác vận hành, sản xuất kinh doanh thiết bị... thuộc chuyên ngành cấp thoát nước và vệ sinh môi trường với tổng số gần 70 nghìn cán bộ công nhân viên. Hội Cấp thoát nước Việt Nam là Hội viên chính thức của Hội nước Quốc tế, Hội nước Châu Á - Thái Bình Dương và có quan hệ nghề nghiệp với nhiều Hội Nước của các nước trên thế giới và khu vực, là thành viên của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam. Hội đã có nhiều đóng góp phần nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả sản xuất kinh doanh của chuyên ngành cấp thoát nước và vệ sinh môi trường ở Việt Nam.

Thứ Bảy, 17 tháng 8, 2013

Giải pháp tăng thị phần cho vật liệu không nung

Mục tiêu của Chương trình phát triển vật liệu xây dựng không nung đến năm 2020 đã được Chính phủ phê duyệt là thay thế 30-40% gạch đất sét nung với yêu cầu bắt buộc các công trình nhà từ 9 tầng trở lên phải sử dụng vật liệu xây dựng không nung.
Đây chính là động lực khuyến khích nhiều doanh nghiệp đầu tư chuyển đổi sản xuất loại vật liệu này. Tuy nhiên, để tăng thị phần tiêu thụ, việc thay đổi thói quen tiêu dùng chính là một mấu chốt quan trọng.
Ông Lê Văn Tới - Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) cho biết: Tại các nước phát triển, ngành công nghiệp này từ lâu đã chiếm trên 70% sản lượng vật liệu xây sản xuất hàng năm. Còn lại gần 30% vật liệu nung chủ yếu dùng cho mục đích trang trí và đó nhất định phải là những sản phẩm thực sự cao cấp. Trong khi đó, ở Việt Nam, vật liệu nung đang chiếm tới 90%, thị phần ít ỏi 10% còn lại dành cho vật liệu xây dựng không nung. Chênh lệch khoảng cánh này quá lớn và để xóa bỏ sự cách biệt này cần phải nỗ lực từ nhiều phía.
Một trong những nguyên nhân khiến vật liệu xây dựng không nung chịu “lép vế” là do tiêu chuẩn sản phẩm, quy phạm xây dựng, kết cấu kiến trúc và đơn giá xây dựng các loại vật liệu mới này chưa được ban hành đồng bộ, đầy đủ. Bởi vậy, các kiến trúc sư và cả đội ngũ tư vấn thiết kế xây dựng khó chỉ định thiết kế xây dựng loại gạch này cho công trình. Do đó, hầu hết các công trình sử dụng gạch không nung hiện nay đều do các nhà thiết kế nước ngoài tư vấn và chủ đầu tư nước ngoài yêu cầu.
Về phía người dân, việc sử dụng loại vật liệu này là những khái niệm hoàn toàn mới mẻ bởi trong tâm thức của họ chỉ biết đến loại gạch đỏ truyền thống. Trong khi công tác tuyên truyền chưa đạt hiệu quả như mong muốn thì vật liệu nung vẫn tiếp tục phát triển tràn lan. Mặc dù gạch nung xâm hại tới môi trường nhưng vì giá thành rẻ nên vẫn hấp dẫn người tiêu dùng. Không chỉ người dân mà nhiều doanh nghiệp xây dựng cũng thừa nhận về thói quen sử dụng vật liệu nung truyền thống, đồng thời chỉ ra sự chênh lệch về giá khiến người tiêu dùng không mấy “mặn mà” với dòng sản phẩm này.
Trước những băn khoăn về yếu tố giá liệu có phải là rào cản lớn trong cuộc đua song mã giữa vật liệu xây dựng không nung và gạch xây truyền thống, Tiến sỹ Trần Văn Huynh - Chủ tịch Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam chia sẻ: Vài năm trước, một số doanh nghiệp đã nhập gạch bêtông khí về bán và nhận thấy thị trường trong nước có nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, hiện nay, việc sử dụng vật liệu xây dựng không nung vẫn còn khá hạn chế là do lâu nay, dân ta vốn quen sử dụng gạch đất sét nung cỡ nhỏ, khi sử dụng gạch kích thước lớn với quy trình xây dựng yêu cầu chặt chẽ hơn khiến nhiều thợ e ngại vì đòi hỏi tay nghề phải thật chuẩn xác. Hiện giá thành vật liệu xây dựng không nung đắt hơn khoảng 50-60% so với vật liệu nung nên người dân và các chủ đầu tư khó chấp nhận.
Tuy nhiên, nếu tính toán kỹ lưỡng theo mét vuông tường xây thì có thể giá thành không chênh lệch là bao, do vữa xây, vữa trát ít hơn mà tốc độ xây nhanh hơn… vật liệu xây dựng không nung có độ bền vững cao, chất liệu nhẹ giúp giảm tải trọng của công trình, lại đẩy nhanh được tiến độ thi công và tiết kiệm vật liệu làm móng cũng như khung chịu lực.
Xét về hiệu quả kinh tế, khối lượng một viên gạch không nung nhẹ gấp từ sáu đến tám, thậm chí 10 lần viên gạch thủ công, nên việc xây dựng rất nhanh mà tải trọng công trình lại nhẹ, sẽ giúp giảm chi phí đáng kể. Mặt khác, vật liệu mới ra đời sẽ từng bước xoá bỏ cách sản xuất gạch thủ công đang thu hẹp hàng ngàn hécta đất mỗi năm và gây hư hại hoa màu. Phát triển vật liệu xây dựng không nung là vấn đề có tính chiến lược của cả ngành vật liệu góp phần phát triển công nghiệp bền vững, thân thiện với môi trường - Tiến sỹ Huynh khẳng định.
Hiện nay, thị trường trong nước có nhiều loại vật liệu xây dựng không nung như: gạch block bê tông (tận dụng đá mạt, đất đồi, cát, kết hợp với ximăng đúc thành viên); gạch bêtông khí, gạch bêtông bọt, đá chẻ… Lợi ích của công nghệ này đã rõ nhưng vẫn còn nhiều doanh nghiệp và cả địa phương chưa đánh giá đúng ý nghĩa của công nghệ mới, nên sản lượng vật liệu xây dựng không nung cung cấp cho thị trường còn khiêm tốn.
Toàn quốc hiện có 800 cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng không nung với tổng công suất đạt khoảng 1.600 triệu viên/năm; trong đó, chỉ có 31 dây chuyền công suất vừa và lớn, đạt sản lượng 552 triệu viên/năm; số còn lại là các dây chuyền nhỏ và quy mô hộ gia đình đầu tư.
Phát triển vật liệu xây dựng không nung đang là xu thế chung của thế giới. Đưa công nghệ này vào cuộc sống là hoàn toàn phù hợp với chủ trương công nghiệp hóa. Mục tiêu của chương trình này là giảm thiểu những tác hại về môi trường, tiết kiệm quỹ đất tự nhiên (kể cả đất sản xuất nông nghiệp), nhưng quan trọng hơn là công nghệ sản xuất gạch ngói không nung sẽ tận dụng được các chất phế thải đổ ra môi trường, như: xỉ than của nhà máy nhiệt điện, phế thải của ngành luyện kim, khai khoáng.
Chính vì thế, từ năm 2011, Chính phủ yêu cầu khi thi công các tòa nhà từ 8 tầng trở lên sử dụng vốn ngân sách (trừ một số công trình đặc biệt) phải sử dụng ít nhất là 50% vật liệu nhẹ trong tổng số vật liệu đưa vào công trình. Về lâu dài, các công trình sử dụng những nguồn vốn khác cũng phải sử dụng vật liệu nhẹ. Bên cạnh đó, để thu hút các doanh nghiệp tham gia phát triển vật liệu xây dựng không nung, hiện các dự án chế tạo thiết bị, sản xuất vật liệu xây dựng không nung, gạch ximăng... đều được hưởng chính sách ưu đãi về thuế thu nhập, thuế nhập khẩu và ưu đãi khác như đối với dự án thuộc chương trình cơ khí trọng điểm.
Cụ thể như: các tổ chức và cá nhân đầu tư sản xuất dòng sản phẩm này hoặc chế tạo thiết bị phục vụ sản xuất sẽ được miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước theo điều 14 Nghị định 142/2005/NĐ-CP của Chính phủ; được miễn, giảm tiền sử dụng đất theo Nghị định 44/2008/NĐ-CP; được hưởng ưu đãi thuế nhập khẩu thiết bị, thuế nhập khẩu nguyên liệu (có thời hạn)… kể cả ưu đãi vốn vay để đầu tư.
Bộ Xây dựng cho biết: Thời gian gần đây, các địa phương đã có nhiều động thái tích cực đẩy mạnh chương trình phát triển vật liệu xây dựng không nung Bộ Xây dựng đang tiếp tục cùng với ngành chức năng ban hành các giải pháp kỹ thuật hỗ trợ, hướng dẫn đào tạo nhân viên kỹ thuật để nhanh chóng đưa công nghệ mới này cuộc sống. Các loại vật liệu nhẹ, thân thiện với môi trường không chỉ đem lại nhiều lựa chọn phong phú cho người sử dụng mà còn góp phần hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.

Thứ Ba, 30 tháng 7, 2013

Chồng tuổi Hợi, vợ tuổi Sửu, nên sinh con năm nào?

Tôi sinh năm 1983 (Hợi), vợ tuổi Sửu (1985), đẻ một bé trai năm 2013. Xin hỏi chuyên gia tư vấn là vợ chồng tôi có hợp với tuổi con trai không?

Nếu vợ chồng tôi muốn đẻ 1 em bé nữa thì sinh vào năm nào để hợp tuổi? Nếu không hợp thì nhờ chuyên gia tư vấn hóa giải giúp tôi?
 (Nguyễn Đình Thông).
[Caption]
Ảnh: vnphongthuy.com.
Trả lời:
Chào bạn!
- Bố sinh năm 1983, cầm tinh: Hợi, ngũ hành: Thủy.
- Mẹ sinh năm 1985, cầm tinh: Sửu, ngũ hành: Kim.
- Con 1 sinh năm 2013, cầm tinh: Tỵ, ngũ hành: Thủy.
Trường hợp của bạn phân tích như sau:
T​heo nhận định của người xưa​:
- Căn cứ vào ngũ hành của bố mẹ thì con nên thuộc Kim hoặc Thổ. Trong gia đình bạn, bé trai vừa sinh (2013) thuộc hành Thủy, không sinh không khắc, là bình thường, tức không tốt không xấu.​ Vậy nên, con ​thứ hai nên sinh vào hành Kim hoặc Thổ để hợp với bố hoặc mẹ.
=> Tính từ năm hiện tại, mệnh Kim hoặc Thổ sẽ thuộc các năm 2014, 2015, 2020...
- Con sinh ra tam hợp/lục hợp/tam hội với cha/mẹ:
+ Tam hợp: Bố tuổi Hợi hợp với Mão, Mùi. Mẹ tuổi Sửu hợp với Tỵ, Dậu.
+ Lục hợp: Hợi hợp Dần, Sửu hợp Tý.
+ Tam hội: Hợi hợp Tý, Sửu; Sửu hợp với Hợi, Tý.
=> Cho nên con có thể cầm tinh: Mão, Mùi, Dần, Tý, Sửu, Tỵ, Dậu, Hợi.
Kết hợp 2 yêu cầu trên, theo nguyên tắc 1, nên sinh con vào năm 2014 (Ngọ), 2015 (Mùi), 2020 (Tý). Nguyên tắc 2: Mão, Mùi, Dần, Tý, Sửu, Tỵ, Dậu, Hợi.
Kết luận:
Năm tháng thích hợp nhất để sinh con:
- 2015 (Tháng 7, 8 âm lịch).
- 2020 (Tháng 3, 6, 9, 12 âm lịch).
Chúc gia đình bạn hạnh phúc.

Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2013

Khoảng cách ly tối thiểu và công nghệ xử lý nước thải sinh hoạt đối với Dự án đầu tư xây dựng nhà máy xử lý nước thải thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh
6/14/13 3:43 PM
Ngày 11/6, Bộ Xây dựng đã có công văn 11/BXD-HTKT gửi Sở Xây dựng tỉnh Bắc Ninh về khoảng cách ly tối thiểu và công nghệ xử lý nước thải sinh hoạt đối với Dự án đầu tư xây dựng nhà máy xử lý nước thải thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh như sau:
1. Vị trí Nhà máy xử lý nước thải thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh đã được xác định trong Quy hoạch chi tiết 1/500 Nhà máy xử lý nước thải thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh tại Quyết định số 213/QĐ-SXD ngày 03/8/2009 của Sở Xây dựng tỉnh Bắc Ninh.

2. Về quy định đối với khoảng cách ly tối thiểu từ trạm xử lý nước thải đến khu vực dân cư gần nhất:

Khoảng cách ly tối thiểu từ trạm xử lý nước thải đến khu vực dân cư gần nhất được quy định tại các quy chuẩn và tiêu chuẩn sau:

- QCVN 07:2010/BXD: Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị.

- QCVN 01:2008/BXD: Quy chuẩn xây dựng Việt Nam Quy hoạch xây dựng.

- TCVN 7957:2008: Thoát lưới – Mạng lưới và Công trình bên ngoài.

- TCVN 7222:2002: Yêu cầu chung về môi trường đối với các trạm xử lý nước thải sinh hoạt tập trung.

Theo quy định hiện hành, các Quy chuẩn là bắt buộc áp dụng, còn các tiêu chuẩn là khuyến khích áp dụng đối với từng trường hợp cụ thể.

Vì vậy, khoảng cách 150m từ nhà máy xử lý đến khu vực dân cư gần nhất mà Dự án đã lựa chọn là phù hợp với quy định hiện hành.

3. Về công nghệ xử lý nước thải đã được phê duyệt:

Công nghệ xử lý nước thải được lựa chọn cho nhà máy xử lý nước thải thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh là công nghệ xử lý sinh học hiếu khí bùn hoạt tính tuần hoàn (gọi tắt là C-tech). Đây là loại công nghệ đang được ứng dụng rộng rãi trong các công trình xử lý nước thải lớn của thế giới và Việt Nam như Nhà máy xử lý nước thải Yên Sở, Hồ Tây - Thành phố Hà Nội; Thành phố Bắc Ninh, VSIP Bắc Ninh - tỉnh Bắc Ninh; thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An, Thủ Dầu Một - tỉnh Bình Dương,…). Theo thiết kế của dự án, toàn bộ nhà máy được xây kín, khi sử dụng công nghệ này, nước thải sau xử lý đạt quy định tại cột A, QCVN 14:2008/BTNMT và được xả ra sông Ngũ Huyện Khê. Công nghệ này được đánh giá là công nghệ hiện đại, không ảnh hưởng, tác động đến đời sống cũng như sinh hoạt của người dân trong vùng dự án.

4. Dự án xây dựng nhà máy xử lý nước thải thị xã Từ Sơn là một công trình phúc lợi xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng. Nhà máy đi vào vận hành sẽ khắc phục tình trạng ô nhiễm nguồn nước mặt, cải thiện môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Khi đưa nhà máy vào sử dụng, chủ đầu tư cần giám sát chặt chẽ hoạt động của nhà máy tuân thủ đúng quy trình quản lý, vận hành.
 
Đề nghị phê chuẩn Hiệp định vay phát triển ngành nước Việt Nam
7/25/13 7:00 AM
Ảnh minh họa (nguồn internet)
Chính phủ đề nghị Chủ tịch nước phê chuẩn Hiệp định vay cho “Chương trình phát triển ngành nước Việt Nam - Khoản vay 2”, vay vốn Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB).
Được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền, ngày 23/5/2013 tại Hà Nội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ký với Đại diện ADB Hiệp định vay cho “Chương trình phát triển ngành nước Việt Nam - Khoản vay 2”.
Theo đó, ADB cam kết tài trợ cho Việt Nam một khoản tín dụng từ nguồn vốn vay thông thường (OCR) trị giá 212 triệu USD với thời hạn 25 năm (gồm 6 năm ân hạn), cơ chế lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất liên ngân hàng London LIBOR 6 tháng + % (biên độ này sẽ được ADB xác định theo từng thời điểm) và các khoản phụ phí (hoặc giảm trừ) tuỳ thuộc vào chi phí huy động vốn của ADB (được thông báo 6 tháng/lần vào tháng 1 và tháng 7 hằng năm), phí cam kết 0,15%/năm tính trên số vốn chưa giải ngân.
Khoản vay này tập trung tài trợ thực hiện các dự án đầu tư cho các công ty cấp nước; hỗ trợ thực hiện chuẩn bị dự án đầu tư cho các công ty cấp nước tại 12 tỉnh, thành phố bao gồm: Hải Phòng, Đà Nẵng, Thừa Thiên-Huế, Bắc Giang, Thái Nguyên, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Trị, Quảng Nam, Đắk Lắk, Lâm Đồng và Bình Dương.
Dự án được thực hiện từ năm 2013-2019. Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan điều phối, UBND các tỉnh, thành phố là cơ quan chủ quản, chủ đầu tư là các công ty cấp nước.
Khoản vay nhằm cung cấp bền vững nước sạch tại Việt Nam thông qua nâng cao hiệu quả của hệ thống nước. Các dự án trong Khoản vay 2 được hoàn thành sẽ mở rộng mạng lưới bao phủ, tăng công suất cấp nước, tăng cường tính bền vững thông qua việc thiết lập và đánh giá các chỉ số hoạt động, có lộ trình tăng giá nước phù hợp theo hướng nguồn thu sẽ bù đắp đủ chi phí và giảm dần trợ cấp.