Thứ Sáu, 18 tháng 5, 2012


Sau 2 năm thực hiện chương trình phát triển vật liệu xây không nung (VLXKN), sản lượng 3 chủng loại sản phẩm chính là gạch xi măng, gạch bê tông khí và gạch bê tông bọt đều có khả năng đạt, vượt mục tiêu đề ra.
Tuy nhiên, việc tiêu thụ, nhất là gạch bê tông khí và bê tông bọt, rất hạn chế. Thậm chí, có DN không tiêu thụ được đã phải dừng sản xuất. Thực tế này đòi hỏi phải có những giải pháp quyết liệt hơn trong thời gian tới để đưa chương trình phát triển VLXKN tới đích.

Sản xuất gạch không nung trên dây chuyền hiện đại tại Công ty TNHH một thành viên Nam Huy (Lào Cai).
Chỉ tiêu thụ được 50-60% sản lượng
Sau 2 năm triển khai chương trình phát triển VLXKN là hàng loạt dây chuyền sản xuất VLXKN đã được đầu tư đều đi vào hoạt động. Trước khi ban hành chương trình (tháng 4-2010), các địa phương chỉ có dây chuyền quy mô nhỏ, công suất dưới 3 triệu viên gạch xi măng/năm, đến nay đã có những dây chuyền công suất 60 triệu viên/năm. Thống kê chưa đầy đủ, cả nước hiện đạt tổng công suất 3 tỷ viên gạch xi măng/năm. Trong khi đó, từ 1 dây chuyền sản xuất gạch bê tông khí, 100.000m3/năm, đã có 22 DN đầu tư (9 DN đã hoạt động), với tổng công suất 3,8 triệu mét khối/năm. Còn với gạch bê tông bọt, từ 4 dây chuyền, công suất 4000-10.000m3/năm, hiện đã có 17 cơ sở đầu tư sản xuất với tổng công suất 190.000m3/năm. Tính cả 3 sản phẩm chủ lực trên, VLXKN hiện đạt tỷ lệ 16-17% tổng vật liệu xây (mục tiêu chương trình đạt tỷ lệ 20-25% vào năm 2015).
Tuy nhiên, ngoài sản phẩm gạch xi măng có mặt trên thị trường từ lâu, giá bán thấp hơn so với gạch đất sét nung, nên có khả năng tiêu thụ tốt (85%-90% sản lượng), thì gạch bê tông khí và bê tông bọt tiêu thụ rất chậm. Báo cáo của Hiệp hội VLXD cho thấy, hầu hết các dây chuyền gạch bê tông khí, bê tông bọt chỉ chạy 20-30% công suất thiết kế. Chỉ có 1 dây chuyền đạt gần 50% công suất thiết kế. Có đơn vị mới đi vào sản xuất đã phải dừng hoạt động do hàng tồn kho lớn, tiêu thụ không được, nếu tiếp tục vận hành lại càng tốn kém. Mặc dù chạy chưa hết nửa công suất, nhưng hầu hết các nhà máy cũng chỉ bán được 50-60% sản lượng. Năm 2011, 9 nhà máy bê tông khí tiêu thụ 0,2 triệu mét khối sản phẩm, còn 17 nhà máy bê tông bọt tiêu thụ 0,05 triệu mét khối sản phẩm. Tình hình tiêu thụ 4 tháng đầu năm 2012 cũng chưa có dấu hiệu khả quan. Nguyên nhân là do nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm, nguồn vốn hạn chế, nên phần lớn dây chuyền có công nghệ ở mức trung bình. Vì vậy, sản phẩm cũng chỉ đạt chất lượng trung bình theo tiêu chuẩn Việt Nam. Các nhà máy lại ra đời đúng lúc kinh tế gặp khó khăn, lạm phát cao, đầu tư công cắt giảm, thị trường bất động sản đóng băng, nên sản phẩm vật liệu tiêu thụ chậm. Mặt khác, lãi suất tăng cao, chi phí sản xuất cao đã đẩy giá thành sản phẩm gạch bê tông cao hơn gạch đất sét nung 20-25%.
Gạch đất sét nung vẫn chiếm tỷ lệ lớn
Một trong những mục tiêu tăng cường sản xuất VLXKN là hạn chế gạch đất sét nung, bởi quá trình sản xuất loại gạch này gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Song, đến thời điểm này, sản lượng gạch đất sét nung cả nước vẫn đạt khoảng 20,9 tỷ viên, chiếm 83% vật liệu xây, trong đó sản lượng gạch sản xuất bằng lò thủ công, là loại lò gây ô nhiễm môi trường vẫn chiếm 35-40%. Đáng chú ý, Hà Nội cùng với Thái Bình, Vĩnh Long, An Giang là những địa phương còn nhiều lò gạch thủ công nhất nước. Như vậy, mục tiêu đến năm 2010 không còn lò gạch đất sét nung thủ công như Bộ Xây dựng đề ra đã "phá sản".
Các chuyên gia cho rằng, công trình cao tầng phải sử dụng tối thiểu 30% VLXKN nhẹ. Các địa phương phải quyết liệt thực hiện lộ trình giảm sản xuất, sử dụng gạch đất sét nung và chấm dứt lò gạch thủ công. Với công trình cao 25 tầng, sử dụng VLXKN nhẹ thay gạch đất sét nung, mặc dù giá thành VLXKN cao hơn gạch đất sét nung nhưng chi phí đầu tư toàn công trình giảm 8% do giảm chi phí kết cấu móng, khung dầm nhờ trọng lượng gạch nhẹ; giảm được chi phí quản lý, chi phí tài chính nhờ tiến độ thi công được đẩy nhanh, sớm đưa công trình vào sử dụng do năng suất thi công cao hơn. Chưa kể, VLXKN tiết kiệm năng lượng làm mát mùa hè, sưởi ấm mùa đông trong giai đoạn vận hành. Theo tính toán, nếu sử dụng toàn bộ sản lượng 4,2 tỷ viên gạch quy tiêu chuẩn VLXKN, có thể tiết kiệm được 6,15 triệu mét khối đất sét, 615.000 tấn than và giảm thải vào khí quyển 2,4 triệu tấn CO2.

Nguồn nước ngầm Việt Nam suy giảm

Mực nước ngầm đang giảm dần ở cả hai Đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ. Một số chỉ tiêu nguyên tố vi lượng của hai vùng này cũng vượt mức cho phép.

Nguồn nước ngầm đang ở mức báo động. Ảnh:Thiennhien.net
Trung tâm Quan trắc và Dự báo Tài nguyên nước vừa công bố kết quả quan trắc tài nguyên nước dưới đất năm 2011 khu vực Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Bộ và Tây Nguyên, Duyên hải Nam Trung Bộ.
Tại Đồng bằng Bắc Bộ, mực nước khai thác tại một số điểm đã đạt mức báo động như Mai Dịch, Cầu Giấy, thuộc Hà Nội. Mực nước ở Hải Hậu, Trực Ninh, tỉnh Nam Định; Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình còn trong ngưỡng an toàn, nhưng do tầng chứa nước có điều kiện thủy địa hóa phức tạp.
Trung tâm quan trắc đã phân tích hàm lượng các nguyên tố vi lượng từ 36 mẫu nước cho thấy, gần một nửa mẫu vượt tiêu chuẩn cho phép. Hầu hết các mẫu phân tích cho hàm lượng amoni, mangan và asen vượt tiêu chuẩn cho phép, nhất là tại các điểm khai thác ở Hà Nội.
Cụ thể, hàm lượng ion amoni cao hơn tiêu chuẩn cho phép tới 92,4 lần. Đặc biệt, tại điểm quan trắc Tân Lập, huyện Đan Phượng, Hà Nội, hàm lượng này cao gấp 233 lần tiêu chuẩn. Hàm lượng mangan từ 32 mẫu nước lấy ở tầng nước ngầm có tới 17 mẫu vượt tiêu chuẩn, nhiều nơi có hàm lượng asen cao gấp 3 lần tiêu chuẩn.
Về mùa mưa, kết quả phân tích hàm lượng các nguyên tố vi lượng từ 30 mẫu nước, hàm lượng mangan có 12/30 mẫu, 4/30 mẫu asen vượt tiêu chuẩn.
Tại khu vực Đồng bằng Nam Bộ, một số điểm quan trắc, mực nước đã hạ thấp sâu, vào khoảng tiệm cận với mực nước hạ thấp cho phép, đặc biệt ở khu vực quận 12, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả đánh giá chất lượng nước theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia ở Đồng bằng này có hai chất là mangan và metan vượt tiêu chuẩn cho phép trong nước ngầm. Điển hình là thị trấn Bến Lục, Long An, chỉ tiêu metan ở các tầng chưa nước chính đều vượt quá giới hạn.
Vùng có tầng nước ngầm tương đối tốt là Tây Nguyên, chưa thấy dấu hiệu ô nhiễm nước dưới đất. Hàm lượng các nguyên tố vi lượng trong nước dưới đất hầu hết đạt tiêu chuẩn cho phép, trừ mangan.
Các chuyên gia cho rằng, nguyên nhân khiến mực nước ngầm ô nhiễm là do hoạt động của con người như rác, nước thải sinh hoạt và sản xuất công nghiệp không được xử lý triệt để ngấm xuống gây ô nhiễm nguồn nước ngầm.
Bên cạnh đó, việc khai thác quá mức cũng như việc việc khoan, đào để xây dựng, khai thác khoáng sản làm mất tầng đất đá bảo vệ tạo điều kiện thuận lợi cho việc xâm bẩn, xâm mặn diễn ra nhanh hơn.
Chuyên gia khuyến cao, nước ngầm ô nhiễm có thể gây ra bệnh dịch tả, nước nhiễm thủy ngân có thể gây ung thư.

Thứ Năm, 17 tháng 5, 2012


Quản lý an toàn môi trường sinh thái trong xây dựng

17/05/2012 20:29
Phát triển bền vững xây dựng
Hệ thống phát triển bền vững được hình thành từ năm 1992 tại Hội thảo của LHQ về bảo vệ và phát triển môi trường ở Rio De Janero. Thế kỷ XX trở thành thế kỷ của sự cảnh báo – nhân loại đã nhìn thấy tương lai phía trước và trên cơ sở kiến thức mới này cần phải sử dụng các biện pháp phòng chống thiên tai địch họa chứ không chỉ đơn thuần là chịu khắc phục.
Yêu cầu của thời đại ngày nay là loại bỏ sự khác biệt giữa hệ thống sản xuất công nghệ công nghiệp do con người tạo ra với các hệ thống tồn tại sẵn có trong thiên nhiên. Đối với bất kỳ hệ thống vi sinh vật tự nhiên nào đều có đặc trưng là độ bền vững dưới tác động của các yếu tố bên ngoài, khả năng tự tái sinh; khả năng tự phát triển, khả năng tự hoàn thiện, phát triển và biến đổi, sự thống nhất tất cả các thành phần. Còn đối với hệ thống sản xuất công nghiệp thì dưới tác động nhỏ của môi trường bên ngoài hay chỉ một sai sót nhỏ trong quản lý cũng dẫn đến hậu quả rất lớn. Từ đó chúng ta có thể tự kết luận rằng: cần phải vay mượn kinh nghiệm tổ chức đã được tích luỹ trong tự nhiên và sử dụng chúng trong hoạt động của chúng ta.
Vấn đề tối ưu hóa trình tự và tổ chức sử dụng cũng đặc biệt quan trọng khi nghiên cứu các các vấn đề có tính chất toàn cầu hóa, như năng lượng, sinh thái học và nhiều vấn đề khác nữa đòi hỏi nguồn tài nguyên rất lớn, mà chúng lại chỉ có hạn trên trái đất. Ở đây không có khả năng tìm ra câu trả lời bằng phương pháp thực nghiệm hay được phép mắc sai lầm còn mắc lỗi hệ thống thì phức tạp hơn nhiều. Tốt hơn cả là dựa vào những hiểu biết về tính chất bên trong của hệ thống, các quy luật phát triển của chúng. Trong trường hợp như vậy khó có thể đánh giá được hết giá trị của các quy luật tự tổ chức, hình thành nên các trình tự trong hệ thống đảm bảo môi trường sinh thái- xây dựng.
Khoa học hiện đại ngày nay thường xuyên là phải tìm ra các quy luật dựa vào các mô hình phi tuyến tính đa dạng và phức tạp.
Chất lượng của hoạt động xây dựng
Định hướng thiết kế sản phẩm và công trình xây dựng trước tiên phải tuân thủ quy chuẩn quốc gia và phải phù hợp với tiêu chuẩn quản lý chất lượng thế giới ISO 14000, 9000 và 10303. Để thực hiện tiêu chuẩn yêu cầu cần thiết là phải thẩm định môi trường và đánh giá chu kỳ sống của công trình xây dựng, các kết cấu của nó và vật liệu xây dựng dưới tác động của môi trường bên ngoài. Trên cơ sở kết quả thẩm định môi trường xây dựng thu được, cần phải triển khai thực hiện các quy tắc, quy trình để tối thiểu hóa hay loại bỏ hoàn toàn các tác động xấu đến quá trình xây dựng công trình.
Phần quan trọng nhất khi đánh giá tác động của công trình xây dựng đối với môi trường bên ngoài là xác định tải trọng môi trường tác động đến nó. Để thực hiện công tác này người ta phải soạn thảo các phương pháp đơn giản và khả thi để xác định các loại tải trọng môi trường khác nhau.
Các phương pháp hiện có cho phép tính được lượng khí thải dioxide carbon (làm cho không khí ấm lên), oxits lưu huỳnh và khí nitơ (nguyên nhân gây ra mưa axít).
Đánh giá tải trọng môi trường cần phải tiến hành đối với từng giai đoạn của chu kỳ sống công trình xây dựng, kể cả công tác khảo sát thiết kế, mua nguyên vật liệu, sản xuất vật liệu xây dựng và các sản phẩm phụ trợ, đào hố móng và công tác làm đất, xây dựng và lắp đặt máy móc, vận chuyển và tháo dỡ, vận hành và phá bỏ công trình.
Trong đó đặc biệt chú trọng đến vấn đề đánh giá và mô hình hóa giai đoạn vận hành, cải tạo và phá dỡ nhà và công trình, ngoài ra phải chú ý đến chi phí và tải trọng của môi trường tổng thể liên quan đến vận chuyển rác thải, chất thải, sử lý chúng, khả năng tái sử dụng nguyên liệu trong rác thải, cũng như tiêu hao hay thu lại năng lượng (thí dụ đốt rác thải)
Trong các hoạt động xây dựng luôn tồn tại các mục đích bên trong và mục đich bên ngoài. Mục đích bên trong là do lãnh đạo doanh nghiệp đặt ra và phát triển nó, thông thường đó là tăng trưởng doanh thu, đáp ứng được kỳ vọng của doanh nghiệp v.v…Mục đich bên ngoài của hoạt động xây dựng là những mục đích mà xã hội nhắm tới và giải quyết. Doanh nghiệp xây dựng nộp lãi dưới dạng thuế thu nhập đối với xã hội là cần thiết, nhưng chưa đủ mà hoạt động của doanh nghiệp xây dựng còn phải giải quyết nhiệm vụ khác nữa mà xã hội đặt ra cho doanh nghiệp.
Nhìn chung những nhiệm vụ này liên quan đến việc nâng cao chất lượng sống của người dân trong xã hội, nguyên do là xã hội nhận biết được chất lượng sống cần thiết. Những nhiệm vụ mà xã hội đặt ra cho các nhà xây dựng là đảm bảo nhà ở, đường đi lại và các công trình xây dựng cần thiết khác, ngoài ra còn tạo lập chỗ làm việc, phát triển một số ngành nghề liên quan đến xây dựng v.v… Hoạt động của doanh nghiệp xây dựng luôn luôn là hoạt động xã hội, và tại xã hội phát triển thì bản thân các nhân viên doanh nghiệp xây dựng hiểu rất rõ điều này. Người ta định hướng hoạt động của mình trên cơ sở triết học xây dựng – hệ thống này bao gồm những nghuyên tắc cơ bản nhất, các phương pháp sản xuất vật liệu, sản phẩm, dịch vụ xây dựng, quản lý sản xuất xây dựng, các mối liên hệ lẫn nhau giữa lãnh đạo doanh nghiệp xây dựng, nhân viên, nhà nước và môi trường thiên nhiên. Triết lý của hoạt động xây dựng dựa trên truyền thống về văn hóa và dân tộc, dựa trên hệ thống chung phát triển công nghệ. Phần quan trọng nhất của triết lý xây dựng là triết lý về chất lượng, đây cũng là yêu cầu của xã hội.
Nguyên tắc đổi mới về việc tổ chức marketing trong doanh nghiệp xây dựng dựa trên sự hợp tác của tất cả các thành viên hướng đến chất lượng, đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng để đạt được hiệu quả lâu dài của doanh nghiệp xây dựng và lợi ích của tất cả người lao động trong doanh nghiệp cũng như lợi ích của toàn xã hội nói chung. Joseph Juran đề xuất tư tưởng làm việc mà ý tưởng chủ đạo của nó là “Cơ sở của chất lượng sản phẩm chính là chất lượng người lao động và chất lượng quản trị trên tất cả các cấp, nghĩa là tổ chức công việc của tập thể người lao động sao cho mọi người lao động đều thỏa mãn với công việc của mình”.
Kế hoạch này không chỉ dựa trên sự hoàn thiện của quá trình sản xuất mà dựa trên sự hoàn thiện tổng thể của cả hệ thống với sự tham gia trực tiếp của lãnh đạo cao nhất của công ty về những vấn đề chất lượng, đào tạo cán bộ các cấp bằng những phương pháp đảm bảo chất lượng, đặt niềm tin vào các cán bộ chủ chốt. Hệ thống này không cho phép đưa các sản phẩm hỏng đến người tiêu dùng, mà chỉ được phép tăng số lượng các sản phẩm chất lượng cao "không bị lỗi" ra thị trường.
Những định hướng phát triển vấn đề an toàn môi trường sinh thái trong xây dựng
* Đảm bảo an toàn môi trường sinh thái trong xây dựng là một trong những hệ thống cơ sở của hoạt động xây dựng, đảm bảo sự tương thức tối đa các điều kiện và các chỉ số của môi trường sinh thái trên tất cả các giai đoạn của chu kỳ sống của công trình xây dựng với mục đích vận hành lâu dài và phát triển ổn định.
* Đảm bảo an toàn môi trường sinh thái trong xây dựng là một khái niệm hệ thống trong đó chia ra các hệ thống nhỏ, các thành tố, các mối liên hệ; thiết lập các đặc tính về chất và về lượng, thiết lập các chỉ số, tiêu chí, các hạn chế, hình thành mục tiêu và chức năng.
* Đảm bảo an toàn môi trường sinh thái trong xây dựng là hệ thống các biện pháp, các phương pháp, các tiêu chuẩn định mức, các giải pháp quản lý dự án, tổ chức, công nghệ và đặc tính kinh tế dựa trên các quy định của pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, các nguyên tắc tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, tài nghuyên thiên nhiên và kinh nghiệm tích cực của con người trong hoạt động xây dựng thực tiễn.
* Đảm bảo an toàn môi trường sinh thái trong xây dựng là một loại hình phức tạp và có giá trị lớn của hoạt động xây dựng, như là những khái niệm, hiệu quả, chất lượng, an toàn, ổn định, thiết thực.
* Đảm bảo an toàn môi trường sinh thái trong xây dựng là xu hướng trong hoạt động khoa học và giáo dục trong lĩnh vực xây dựng, đào tạo cán bộ chuyên nghiệp và cán bộ khoa học cho ngành xây dựng.
* Đảm bảo an toàn môi trường sinh thái trong xây dựng giải quyết những đặc thù của dự án xây dựng cụ thể, còn tuân thủ các quy định của nhà nước trong qúa trình thẩm định môi trường của các cấp khác nhau, đánh giá tác động môi trường xung quanh, bảo hiểm rủi ro môi trường, kiểm tra môi trường, sự tương ứng của hệ thống hành chính và trách nhiệm pháp lý của người quyết định.
* Đảm bảo an toàn môi trường sinh thái trong xây dựng, là hệ thống được hình thành trong tất cả các giai đoạn của chu kỳ sống của công trình xây dựng, kể cả giai đoạn khảo sát thiết kế xây dựng, chuẩn bị nhiệm vụ thiết kế xây dựng, thiết kế, sản xuất vật liệu xây dựng, chuẩn bị thi công, công tác xây lắp và các công trình đặc thù, khai thác công trình, cải tạo công trình và khả năng phá bỏ.
* Đảm bảo an toàn môi trường sinh thái trong xây dựng cần phải xem xét công trình một cách tổng thể, cũng như đối với các yếu tố cấu thành chúng. Thí dụ, vật liệu xây dựng được coi là thân thiện với môi trường sinh thái cũng có thể gây ra tác động xấu đến an toàn môi trường trong quá trình sản xuất. Trong khi đó giá thành vật liệu lại không tính đến thực tế này.
* Đảm bảo an toàn môi trường sinh thái trong xây dựng như là một hệ thống, không chỉ liên quan đến một công trình xây dựng mà còn là khái niệm bao gồm tổ hợp nhà và công trình, kể cả liên quan đến hoạt động xây dựng trên cả một lãnh thổ hay cả một vùng miền.
* Đảm bảo an toàn môi trường sinh thái trong xây dựng là hệ thống thông tin dựa trên cơ sở dữ liệu thu thập được trong qúa trình nghiên cứu nhiều năm, thanh kiểm tra môi trường sinh thái cùng với việc sử dụng hệ thống dữ liệu và công nghệ thông tin.
* Đảm bảo an toàn môi trường sinh thái trong xây dựng theo tiêu chuẩn MS ISO 14000 là một trong các hệ thống đảm bảo chất lượng môi trường có mục đích miêu tả và giải thích mối quan hệ giữa hệ thống xây dựng và môi trường sinh thái.
Hệ thống đảm bảo an toàn môi trường sinh thái vận hành bao gồm tiểu hệ thống quản lý và tiểu hệ thống bổ trợ. Hệ thống quản lý mang tính quốc gia và có cơ cấu cây thư mục: công trình- lãnh thổ- vùng- ngành và dựa trên cơ sở luật pháp, các quy định, tiêu chuẩn và trình tự yêu cầu.
Mục đích xây dựng bất kỳ hệ thống đảm bảo an toàn môi trường sinh thái là tối thiểu hóa hay loại bỏ hoàn toàn các tác động xấu đến môi trường tự nhiên trong suốt qúa trình xây dựng và tồn tại công trình xây dựng.
Theo cấu trúc chuyền tải an toàn môi trường sinh thái chia ra mức độ ổn định thiên nhiên dưới tác động của quá trình xây dựng dựa vào các quy luật của tự nhiên; an toàn sinh thái xã hội dựa vào các mối quan hệ xã hội đặc biệt; ổn định về tinh thần dựa vào mức độ ổn định thế giới tâm linh của con người. Các tiếp cận theo cấu trúc cho phép phân loại các cơ cấu an toàn môi trường sinh thái trong xây dựng (ổn định vùng miền), tương ứng với nó là chất lượng môi trường sinh thái trên lãnh thổ được thể hiện trên sơ đồ hình 1.

Hình 1. Sơ đồ cơ cấu bảo đảm an toàn môi trường sinh thái trong xây dựng
Tính đa nhân tố đảm bảo an toàn môi trường trong xây dựng
Khái niệm “bảo đảm an toàn môi trường trong xây dựng” là khái niệm đa nhân tố và mang tính môi trường. Ý nghĩa của việc đảm bảo an toàn môi trường trong xây dựng là khả năng giảm thiểu tối đa các yếu tố gây ra các nguy hiểm tiềm tàng (gói các rủi ro). Sự tồn tại của các nhân tố bên trong và bên ngoài dẫn đến phải bảo hiểm và bảo hiểm trách nhiệm theo Bộ luật dân sự Liên bang Nga và các Bộ luật của LHQ trong lĩnh vực bảo đảm an toàn.
Để biến chuyển một cách có hiệu quả từ hệ thống kiểm tra phân tích- thông tin và phân tích các hiểm nguy tới việc tổ chức hệ thống đảm bảo an toàn môi trường, bảo hiểm và tái bảo hiểm các rủi ro môi trường đòi hỏi phải có được sự nhất trí cao của các cơ quan thẩm định nhà nước trong lĩnh vực bảm đảm an toàn môi trường và lĩnh vực nghiên cứu thẩm định phân loại rủi ro (bảo hiểm môi trường).
Hệ thống đảm bảo an toàn môi trường là hệ thống thống kê vô số các nhân tố nguy hiểm thuộc các loại hình khác nhau. Các quyết định mang tính cá nhân và độc quyền thiếu sự thống nhất là không thể chấp nhận được.
Vô số các nhân tố nguy hiểm thuộc các loại hình khác nhau và vô số các lợi ích cá nhân trên thực tế là không đồng nhất, và trong một số trường hợp chúng có thể đối kháng nhau. Chính vì vậy sự đồng thuận của các giải pháp đòi hỏi nghệ thuật thỏa hiệp lẫn nhau.
Sự thỏa hiệp đặc biệt bao gồm các vấn đề về cách xác định và tuân thủ bảo mật (hạn chế tiếp cận) các dữ liệu liên quan đến các cấp độ bí mật khác nhau (bí mật quốc gia, bí mật công tác, thương mại, riêng tư).
Trong thực tế, các lợi ích riêng tư của các tổ chức và các nguy hiểm tiềm tàng trong các công trình xây dựng luôn thay đổi dẫn đến việc bỏ qua những yêu cầu và những đòi hỏi nghiêm ngặt trong hệ thống đảm bảo an toàn môi trường. Điều này đẫn đến sự cần thiết phải thường xuyên điều chỉnh các định hướng ưu tiên, phân chia và phân chia lại các chức năng và các nguồn lực.
Thậm chí về lý thuyết cũng không tồn tại tiêu chí đánh giá đầy đủ danh mục các yếu tố nguy hiểm tiềm tàng, vì vậy mọi ý tưởng và đề xuất đều có khả năng tồn tại trong cuộc sống. Bản thân danh mục này luôn là danh mục mở, còn việc thay đổi định hướng ưu tiên trong danh mục phải được cả tập thể quyết định bao gồm tất cả các thành viên tham gia của tổ chức đó.
Yếu tố nguy hiểm nhất là không tính đến khía cạnh phân tích- thông tin khi quyết định, khi lập kế hoạch và khi phân bổ các nguồn lực. Sự kết hợp hợp lý giữa các quy định truyền thống và để ra quyết định trên cơ sở phân tích- thông tin hiện đại yêu cầu đào tạo cán bộ quản lý các cấp chuyên nghiệp chất lượng cao phù hợp với sự phát triển.
Thực tế thì hệ thống các quy chuẩn pháp lý còn một số nhất định các yếu tố không phù hợp và còn nhiều thiếu sót, và trong thực tế hệ thống này không thống nhất được tiêu chí chủ đạo để đảm bảo an toàn sinh thái công trình xây dựng. Điều này đòi hỏi phải thẩm định và xem xét lại toàn bộ hệ thống quy chuẩn pháp lý theo định hướng ưu tiên các khía cạnh nhằm đảm bảo an toàn môi trường sinh thái.
Yếu tố đặc thù của hệ thống tư nhân kiểm soát phân tích-thông tin, tổng hợp và đưa ra các giải pháp là tương đối phức tạp và ít được các chuyên gia hoạt động ở các lĩnh vực khác xem xét. Vấn đề phối hợp được các giải pháp tư nhân về tiêu chí chung để đảm bảo an toàn môi trường sinh thái chỉ được giải quyết trong trường hợp các tài liệu được thể hiện rất rõ ràng và đơn giản hoá công nghệ thông tin.
Sự cần thiết phải thường xuyên hòa hợp đòi hỏi các thành viên của hệ thống bảo đảm an toàn môi trường sinh thái lượng kiến thức chuyên môn cần thiết trong lĩnh vực kỹ thuật hệ thống và tâm lý học, còn sự thay đổi thường xuyên của các điều kiện quyết định bên trong và bên ngoài (các yếu tố rủi ro) thì đòi hỏi bắt buộc phải chuẩn bị sẵn dải tần các phương án thay thế để lựa chọn tức thì các phương án quyết định cuối cùng.
Giải quyết vấn đề an toàn môi trường sinh thái hạn chế bằng tiềm năng và các nguồn lực thực tế dẫn đến cần phải tăng cường yêu cầu bắt buộc sắp xếp lại các định hướng ưu tiên trong vô số các mục đích và nhiệm vụ. Việc sắp xếp nói trên không chỉ đòi hỏi một số thỏa hiệp và nhượng bộ của tư nhân nhất định để đạt được mục đích chung mà còn để phân chia các lợi ích sau này nữa phù hợp với mức độ nhượng bộ của tư nhân.
Bất cứ hành vi nào để phân chia và tái phân chia các chức năng của các thành viên trong hệ thống bảo đảm an toàn môi trường sinh thái cần phải loại bỏ tham vọng và xây dựng trên cơ sở 3 tiêu chí nổi tiếng – làm những điều gì mới, làm điều có ích và mỗi người làm giỏi chuyên môn của mình.
Chuẩn bị và ra bất kỳ quyết định nào trong hệ thống cần phải lường trước dự báo các vấn đề mới đồng thời với việc tính đến các nguy hiểm mới có khả năng xảy ra trong quá trình triển khai thực hiện.
Hệ thống đảm bảo an toàn môi trường sinh thái trong xây dựng yêu cầu hệ thống tương ứng của người quyết định có trách nhiệm về hành chính và trách nhiệm luật pháp. Đồng thời cũng quy định nhiệm vụ xác định trách nhiệm về độ chính xác và kịp thời của cơ sở dữ liệu trong hệ thống đảm bảo phân tích-thông tin ra quyết định.

Thứ Tư, 16 tháng 5, 2012

TRI THỨC VĂN HÓA-MÔ HÌNH GIÁO DỤC HUMBOLDTS


“Tư tưởng của chúng ta là số phận của chúng ta” (Arthur Schopenhauer, 1788 – 1860) (quote from: Chuyện xưa, chuyện nay : Tư tưởng đổi thay số phận – Bùi Văn Nam Sơn (SGTT 26.05.2010) http://www.sgtt.com.vn/Loi-song/122844/Tu-tuong-doi-thay-so-phan.html) Những "đại ca" dấn thân như như Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn Xuân Xanh, Trương Văn Tân, Trịnh Xuân Thuận, Bùi Trân Phượng, Chu Hảo... đã lặng lẽ phối hợp với nhau và dưới sự hỗ trợ từ những mầm non tuy còn yếu ớt của xã hội dân sự đã cho ra đời một sản phẩm thật quan trọng: http://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=448:gii-thiu-k-yu-humboldt-200&Itemid=5
Đại học ở VN có lẽ giống trường phổ thông cấp 4, do lấy theo mô hình giáo dục của Liên Xô và các nước XHCN, những nền giáo dục này có một nhược điểm "chết người" là không gắn giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học (các viện tách khỏi các trường), các trường đại học không được tự trị.

* Mô hình
giáo dục Humboldts:
- Theo ông Bùi Văn Nam Sơn," lý tưởng giáo dục Humboldt dựa trên các cột trụ: sự tự trị của đại học trước các thế lực chính trị, kinh tế, xã hội, quyền tự do trong nghiên cứu và giảng dạy, hệ thống giáo dục phù hợp với đặc điểm của các lứa tuổi, yêu cầu giáo dục văn hóa tổng quát để xây dựng con người cá nhân tự chủ, và sau cùng, là việc học tập suốt đời." trích trong bài: Kỷ yếu Humboldt 200 năm: Từ cội nguồn đại học đến tinh thần đại học hiện đại (SGTT 21.3.2011) (
http://www.sgtt.com.vn/Khoa-giao/142010/Tu-coi-nguon-dai-hoc-den-tinh-than-dai-hoc-hien-dai.html )
- "Đại học Berlin là đại học khai sáng theo tinh thần Immanuel Kant hòa lẫn tinh thần nhân văn của chủ nghĩa (tân) nhân văn Đức được đại diện bởi các đại văn hào như Goethe, Schiller, cùng với chủ nghĩa duy tâm của các nhà triết học Đức như Fichte, Schelling, Hegel. Đó là đại học của khoa học, của nghiên cứu, của sự kết hợp giảng dạy và nghiên cứu, của tự do giảng dạy (Lehrfreiheit) và tự do học (Lernfreiheit), mà mục đích tối thượng là đi tìm chân lý mà không có sự can thiệp của nhà nước. Nó nhằm phát triển con người một cách toàn diện, phát triển khoa học là “cái mà mãi mãi phải đi tìm” như Humboldt quan niệm về chân lý. Sự chuẩn bị phải được bắt đầu ngay từ nhà trường, để “bước chuyển từ trường học sang đại học là một chương trong cuộc đời của một người trẻ mà ở đó, …có thể tự đứng vững được trong tự do và tự-hành động,…và khi thoát khỏi sự kềm chế, người sinh viên không trở thành kẻ lãng du, hoặc chuyển sang cách sống thực dụng, mà sẽ mang trong mình một niềm mong ước vươn lên trong khoa học, cái mà cho đến lúc đó có thể nói hầu như chỉ mới được gợi ra cho anh ta từ xa thôi”." trích trong bài: Kỷ yếu Humboldt 200 - by Nguyễn Xuân Xanh (diendan 03.02.2011) bài này có thể lấy tại địa chỉ
http://www.diendan.org/Doc-sach/ky-yeu-humboldt-200 nếu k vào được có thể vào qua link này http://123data.ne/browse.php?u=Oi8vd3d3LmRpZW5kYW4ub3JnL0RvYy1zYWNoL2t5LXlldS1odW1ib2xkdC0yMDAvP3NlYXJjaHRlcm09Ikh1bWJvbGR0Ig%3D%3D&b=5
- "Đó là đại học lấy nghiên cứu, khám phá kết hợp với giảng dạy, tự do giảng dạy và tự do học làm trọng tâm hoạt động, mà không có sự can thiệp của nhà nước." trích trong bài:  VỀ  NGUỒN  GỐC  CỦA  ĐẠI  HỌC *- Nguyễn Xuân Xanh (erct – copy 23.4.2011) (
http://www.erct.com/2-ThoVan/0-Tu_sach-ERCT/VeNguongoccuaDaihoc.htm )
- "Hai trong các đặc tính được viết lên ngọn cờ của đại học cải cách quan trọng này là “tự do” và “nghiên cứu”. Đại học phải là đại học có đầy đủ quyền tự do cho học thuật, và phải là đại học nghiên cứu. Không có hai tính chất này, đại học trở nên tầm thường như trường học muôn thuở." trích trong bài: Nhân đại học HUMBOLDT tròn 200 tuổi. Đại học Việt Nam đang ở đâu trên bản đồ thế giới? – Nguyễn Xuân Xanh (SGTT 15.10.2010)
http://sgtt.vn/Khoa-giao/131135/Dai-hoc-Viet-Nam-dang-o-dau-tren-ban-do-the-gioi.html
Những người con là kết quả của mô hình giáo dục Liên Xô có lẽ đều nhận thấy điểm này, ngoảnh đi ngoảnh lại thấy thời gian trôi đi quá nhanh mà mình đã lớn tuổi, có khi gia đình cũng chưa xây dựng, đó chính là kết quả của một sai lầm thuộc về giáo dục, tách giáo dục ra khỏi cuộc sống, người học ở trong tháp ngà quá lâu và ngộ nhận, khi bước ra khỏi thì thấy thời gian mình trải qua bị lãng phí. Nhưng ngày nay thì họ lại chuyển sang thái cực hơi cực đoan hơn đó là họ lại là những con người lợi dụng nhanh nhất?
Điểm qua một số bài giới thiệu tư tưởng này thấy trên các trang chính thống (thuộc nhà nước) như Sài Gòn tiếp thị và các trang chia sẻ, nói một cách chữ nghĩa là khu vực dân sự:
- Trên blog của ô Giáp Văn Dương
http://www.giapvan.net/2011/07/ly-tuong-giao-duc-humboldt-mo-hinh-hay.html hay bài này: http://bungbinhsaigon.net/Baiviet.aspx?id=315
- Trên SGTT có
các bài:
http://sgtt.vn/Khoa-giao/144475/Bong-mat-cua-mot-vi-nhan-.html
http://sgtt.vn/Khoa-giao/144086/Chung-quanh-di-san-cua-Humboldt-.html
http://sgtt.vn/Khoa-giao/143485/%E2%80%9CSu-nghiem-chinh-cua-ly-tuong%E2%80%9D.html
http://sgtt.vn/Khoa-giao/143800/%E2%80%9CDao-sac-moi-cat-duoc-moi-thu%E2%80%9D.html

Và đây là các bài khác của
đại ca Bùi Văn Nam Sơn
http://amvc.free.fr/Damvc/GioiThieu/BuiVanNamSon/BVNSTab.htm
Trên tờ Sài Gòn tiếp thị có một mảnh vườn nhỏ ươm mầm những tư tưởng thú vị  của ông (
http://sgtt.vn/Khoa-giao/Tro-chuyen-triet-hoc/Index.html ) trang amvc tập hợp tại đây:
"Với tư cách là một trong các nhà giáo dục lớn của mọi thời đại, Kant còn đóng vai trò “khai sáng” như thế nào trong đời sống xã hội hiện nay, theo ông?
Tôi xin phép đổi chữ “Khai sáng” quen thuộc thành chữ “Khai minh” theo đúng ngữ pháp Hán Việt. Kant viết: “Khai minh là việc con người đi ra khỏi sự không trưởng thành do chính mình tự chuốc lấy”. Không trưởng thành là sự bất lực không biết dùng đầu óc của mình mà không có sự hướng dẫn của người khác. Vì thế, ông bảo: khẩu hiệu của sự Khai minh là: “sapere aude!” (latinh: Hãy dám biết!), hãy có gan dùng đầu óc của mình. Con người rất thích ở yên trong tình trạng không trưởng thành, vì mọi việc đã có người khác chỉ dẫn, sắp đặt, lo liệu. Thoát khỏi “xiềng xích êm ái” ấy, con người thấy bơ vơ, lúng túng, vì không quen suy nghĩ và vận động tự do. Một cuộc cách mạng có thể lật đổ kẻ độc tài nhưng không phải dễ dàng mang lại sự cải cách đích thực về lề lối tư duy. Theo nghĩa đó, Khai minh là một tiến trình tất yếu, bất tận. Vận dụng vào lĩnh vực giáo dục, nó mãi mãi có ý nghĩa thiết thực: khuyến khích, bảo vệ quyền tự do nghiên cứu của nhà khoa học, vun bồi tinh thần phê phán và khả năng tự đề kháng của người học"
 đoạn này: "
Còn xét như một phong trào lịch sử? Phong trào Khai minh bắt đầu ở Châu Âu từ giữa thế kỷ 17 (nếu tính từ năm 1667 với “Luận văn về sự khoan dung” (Essay on Toleration của John Locke) cho đến đỉnh cao là Đại cách mạng Pháp 1789. Sau hai thế kỷ gian khổ, phương Tây đã tạo được những tiền đề cơ bản cho xã hội hiện đại: nền giáo dục phổ cập, nền khoa học và đại học tự trị, chế độ cộng hòa trên cơ sở tam quyền phân lập (Montesquieu) và sự tự do của các nhân quyền và dân quyền (Rousseau) cùng với cơ sở vật chất là nền kinh tế hàng hóa và đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa… Vì thế, người Tây phương ngày nay vẫn tự nhận mình là con đẻ của thời Khai minh, dù từ thế kỷ 19 đến nay, họ không ngừng tìm mọi cách để điều chỉnh và khắc phục các hạn chế và khuyết tật của nó.
- Ông từng nói dịch sớm và dịch cái đáng dịch là cách nhanh nhất để bắt kịp thiên hạ. Phải chăng cũng là một cách “đi tắt đón đầu”?
Đúng và không. Theo tôi, “đi tắt đón đầu” có thể đúng ở một lĩnh vực công nghệ cục bộ hay mánh lới làm ăn nào đó, hiểu như là sự nắm bắt thời cơ và có cách làm thông minh, tiết kiệm, còn học thuật và dân trí thì phải theo một tuần tự chứ không thể chờ có phép lạ. Muốn tiếp thu những giá trị vĩnh cửu và tiên tiến đích thực, phải có nền tảng, phải cần thời gian, chỉ đừng để mất thời gian vì đi đường vòng. Những giá trị ấy độc lập với dân tộc, chính trị. Tự mình đóng cửa thì hạn chế tầm nhìn, chỉ có hại cho mình thôi. Bởi lẽ, mình không đọc sách thì sách đâu có chết! Niềm tin được củng cố thực sự khi được so sánh và thử thách với các tư tưởng khác. Nói như Hegel, tin là phải hiểu cái mình tin."
đoạn này: "
Ông nghĩ sao về điều này?
Năm nay chúng ta kỷ niệm 100 năm phong trào Duy tân và Đông kinh nghĩa thục. Đã lần lượt có các buổi hội thảo nhân dịp này ở Hà Nội, Hội An, và vào ngày 21.9. tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. HCM, kết hợp với lễ ra mắt ở phía Nam của Quỹ dịch thuật Phan Châu Trinh. Theo tôi nhận xét, đó là các dịp rất tốt để anh chị em tri thức tâm huyết cùng nhau suy nghĩ và cố gắng làm những gì chưa làm được. Thật ra, là phải làm nốt những gì các cụ chưa thể làm do hoàn cảnh lịch sử khắc nghiệt và hãy làm những gì lẽ ra chúng ta đã phải làm. Chúng ta đã mất quá nhiều thời gian và thời cơ!
- Nhất là trong bối cảnh hội nhập và giao lưu quốc tế dồn dập với số lượng kiến thức khổng lồ như ngày nay?
Vâng, trong thời hội nhập, vẫn không thể giao lưu nếu không hiểu nhau và không hiểu nhau ở cùng một trình độ. Việc hiểu quan trọng nhất phải thông qua học thuật. Trước đây loài người thấy thế giới tự nhiên rất khó hiểu. Sang thế kỷ 21, do sự phát triển vượt bậc của khoa học và kỹ thuật, việc tìm hiểu tự nhiên có khi không khó khăn bằng hiểu cái thế giới tự nhiên thứ hai do con người tạo ra (tức khối lượng tri thức khổng lồ của nhân loại). Không biết chọn lọc tinh hoa, người học rất có thể lạc vào khu rừng rậm, không tiếp cận nỗi. Đây là việc làm rất quy mô và đòi hỏi sự kiên trì."
Đoạn này: "
- Đội ngũ dịch giả, như ông nói, đã thiếu lại yếu, giải quyết vấn đề này thế nào, thưa ông?
Có lẽ chúng ta nên học kinh nghiệm của Nhật bản và Hàn quốc. Họ biết rằng công cuộc cải cách giáo dục phải bắt rễ từ nền móng khoa học. Do đó, bên cạnh việc đào tạo chuyên gia ở ngoài nước, họ chủ yếu dựa vào lực lượng hùng hậu tại chỗ là sinh viên, nếu không, chẳng biết lấy đâu ra. Giáo sư hướng dẫn sinh viên làm luận án thạc sĩ, tiến sĩ, bằng cách cho họ dịch, chú giải, bình luận những tác phẩm kinh điển trên thế giới. Đây là nguồn lực vô tận, lại không tốn kém nhiều mà dễ tổ chức có hệ thống. Nhìn phương Tây mà xem. Trong thời gian tương đối ngắn, họ đã có trong tay hầu hết những bản dịch đáng tin cậy về văn hóa và văn minh phương Đông. Họ đã làm theo cách ấy, và còn có thuận lợi là dựa vào nguồn du học sinh Châu Á ở nước họ để dịch kinh điển phương Đông, có sự thẩm định của ban giám khảo. Hai bên cùng có lợi, và người tốt nghiệp thực sự có được kiến thức vững vàng.

- Ông thường nói: “Học triết thì nên đến thẳng với “Phật” chứ không thông qua “các nhà sư”. Để học và dịch những tác phẩm đồ sộ, ông có phải đi đường vòng không?
Đi đường vòng nhiều chứ. Mất thì giờ vô cùng. Mất sức nữa. Đơn giản vì tôi không có được các bản dịch giúp cho mình tham khảo khi còn trẻ. Ít được thụ hưởng công trình của đồng hương mình. Những sinh viên đi du học như tôi đều gặp những trở ngại lớn như thế. Tôi có bạn học là một sinh viên người Hàn cùng cặp tình nhân người Nhật. Lúc sang Tây Đức, tôi đã có bằng cử nhân, còn cặp tình nhân kia thì chưa, và còn rất trẻ. Thế nhưng, tôi và ông bạn người Hàn hết sức ngạc nhiên trước trình độ của họ. Hỏi ra mới hay, họ có trong tay cả hai bản dịch toàn tập bằng tiếng Nhật, cùng sách tham khảo, từ điển. Vào năm 1970, Hàn Quốc cũng như mình. Nhưng gần đây, ông bạn Hàn Quốc viết thư khoe với tôi, sau khi về nước, thế hệ của ông và trước ông một ít đã dịch những bộ toàn tập các tác giả lớn nhất qua tiếng Hàn. Ông còn nói đùa: “bảo đảm chất lượng Đức quốc!”. Từ chỗ tay trắng, sau 30 năm, Hàn Quốc đã có một kho tàng kinh điển. Tôi hết sức kinh ngạc vì điều này.
- Nâng cấp đại học VN nên bắt đầu từ việc trùng tu nền học thuật. Liệu một thế hệ đã có thể lấp đầy những lỗ hổng này?
Chúng ta đã có một nền học thuật bình thường như các nước khác hay chưa mới là vấn đề. Muốn cải cách giáo dục, xây dựng đại học có đẳng cấp khu vực thì trước hết phải làm những công việc bình thường như người ta đã. Nhìn vào thư viện sẽ thấy ngay nền học thuật, dịch thuật của một đất nước đến đâu. Vậy phải làm ngay kẻo không kịp. Không có phép lạ nào ngoài việc có biện pháp hợp lý, rồi làm việc kiên trì và lâu dài. Không ai dám chắc, nhưng nếu làm tận lực, một thế hệ vẫn có thể khắc phục được lỗ hổng ấy. Quan trọng là phải thấy việc tiếp cận tinh hoa thế giới một cách có hệ thống là cần thiết. Sau đó mới đến việc sử dụng chất xám của sinh viên cao học."
+ Trong bài: DỊCH THUẬT VÀ HỌC THUẬT - Bùi Văn Nam Sơn (dịch giả) "Dịch thuật là tăng nội lực cho số đông để các thế hệ sau bay cao, bay xa. Không có cái nền chung ấy, những “sáng tạo” đột xuất cũng khó có chất lượng ngoài chút hư danh của kẻ “múa gậy vườn hoang” và trái với tính “công truyền” (chứ không phải “bí truyền”) vốn là bản chất của khoa học và với lý tưởng nhân văn, khai sáng của triết học đích thực."
Giáo dục của mình nhìn vào cở sở thư viện trường lớp ô Bùi Văn Nam Sơn phải thốt lên: đúng ra là chúng ta không có các sách dịch bản gốc mới đúng. "
Đấy có phải lý do mà thầy đã nhiều lần đau lòng thốt lên rằng môi trường tri thức cũng như giáo dục ở VN quá thiếu sách? 
- Đúng hơn phải nói là không có sách! Sách nghiên cứu, sách giáo dục toàn bằng tiếng nước ngoài làm sao đòi sinh viên hiểu được? Nước ngoài cũng thế thôi, sinh viên Mỹ làm sao đọc được tiếng Pháp nếu cuốn sách đó không được dịch sang tiếng Anh? Làm sao làm seminar cho sinh viên được khi thiếu sách? Điều kiện vật chất rất quan trọng cho giáo dục. Hình thức seminar thành công ở phương Tây bởi họ đã có thời gian chuẩn bị sách rất kỹ. Học về tác giả nào cũng có sách để đọc, để nghiên cứu sâu hơn, cùng nhau đọc thì mới cùng nhau giải thích hoặc tranh cãi. Xu hướng chung của thế giới, mình không muốn bị lạc hậu thì phải chuẩn bị những cơ sở vật chất chứ không phải chỉ nguyện vọng thấy Tây 80% seminar trong giáo dục ta cũng bắt chước y như thế." trong bài: Cuộc đời vui quá không buồn được - Cát Khuê (thực hiện) pv Bùi văn Nam Sơn  (19.11.2010 – copy 23.12.2010) có thể tìm thấy tại đường link:  http://www.catkhue.com/2010/11/cuoc-oi-vui-qua-khong-buon-uoc.html
Trong bài:  Bùi Văn Nam Sơn Kẻ lữ hành theo chân các triết gia (TN 4-7-08) ( http://tuansan.thanhnien.com.vn/pages/200827/248816.aspx ) "Ông nói nhiều về nỗi trăn trở, tự vấn của mình về sự suy nhược của nền khoa học xã hội - nhân văn nước nhà. Ông sốt ruột, mất ăn mất ngủ (theo cả nghĩa đen, mỗi ngày ông đều chong đèn làm việc đến khuya, làm việc liên tục, suốt ngày, suốt tháng, suốt năm, “như có cọp rượt sau lưng”) khi nhìn vào thư viện quốc gia, thấy vốn liếng sách vở của ta không bằng một thư viện trường đại học của người. Trong cơn bùng nổ của lý thuyết trên thế giới, ông hoảng hốt thấy sự thờ ơ và lãnh đạm của chúng ta. “Phải biết giật mình, mất ăn mất ngủ khi so với các nước gần gũi như Hàn Quốc. Những năm 70 của thế kỷ trước, triết học họ kém hơn ta, họ tiếp xúc với triết học phương Tây muộn hơn ta. Giờ sau 40 năm nhìn vào thư viện của họ, toàn tập những tác phẩm lớn của những tác giả lớn về KHXH đã dịch ra tiếng Hàn. Hàn Quốc phát triển kinh khủng về học thuật, văn hóa, kinh tế. Trong 40 năm hòa bình, ta loay hoay làm đủ thứ chuyện thì họ làm việc đó. Ta tụt hậu kinh khủng, kể cả trong văn hóa tư tưởng – cái không tốn kém nhiều – lại tự hào vỗ ngực ta là “văn hiến chi bang” mà sách vở trống lổng. Không biết bao giờ mới tỉnh thức về việc này!?"
" Vì sao trong khi nói và viết, ông rất thường trích dẫn cụ Phan Châu Trinh, ngay như câu vừa rồi ông dẫn của cụ “Yêu nước thì tốt, nhưng biết đạo yêu nước còn tốt hơn”?
Tôi thường trích dẫn cụ vì Phan Châu Trinh lớn lắm, là  nhân vật bản lề giữa xã hội cũ và mới, tượng trưng cho sự tỉnh thức của một dân tộc biết giật mình trước sự lạc hậu và thấy rõ sự quan trọng hàng đầu của văn hóa. Vì cụ biết có nó là có tất cả, gỡ được nó là gỡ được tất cả, mặc dù những chỗ khác có bức thiết hơn (trong khi thiên hạ thói thường “nóng đâu xoa đó”). Luận về người không luận về thành bại, mà luận về tầm nhìn, là cách đặt vấn đề của họ. Đặt vấn đề quan trọng hơn giải pháp, để không vay mượn tư tưởng, nô lệ tư tưởng của người khác. Độc lập văn hóa còn quan trọng hơn độc lập chính trị. Độc lập văn hóa là thấy được tầm quan trọng của văn hóa, giữ gìn, bồi đắp được nó, chứ không cho là văn hóa mình số 1! "
đoạn này: "Hai, thói quen: Lâu nay mình vẫn tiếp thu được những tư tưởng uyên thâm của Nho, Khổng (nhưng nay lạc hậu, xơ cứng. Mình vừa lòng với việc tiếp thu bề ngoài, không hiểu nguyên lý, phổ biến theo kiểu bí truyền, thầy dạy cho trò). Còn về việc không có những nhà đại khoa học, thì mình cũng chỉ là một trong hàng trăm nước như vậy, số nước có nhà đại khoa học chỉ đếm trên đầu ngón tay, không nên mặc cảm về chuyện này.
Không phải ta không có truyền thống. Truyền thống là do mình tạo ra. Do thói quen của một đất nước có nền giáo dục - khoa học lạc hậu, coi thường khoa học nhân văn không thiết thực, không làm ra của cải (mà không hiểu nó là nền tảng để làm ra của cải), chứ đừng tự kỷ ta không có truyền thống.
Từ việc xem nhẹ, coi thường khoa học xã hội lại ngộ nhận về tố chất, truyền thống của mình là cái nhìn vô cùng thiển cận."
đoạn này nữa: " Ông nhắc đi nhắc lại đừng công cụ hóa triết học một cách vội vã và dại dột. Vậy thì nhiệm vụ của triết học là gì?
Triết học, nhiệm vụ của nó là làm việc cho sự tự do của con người. Tự do nghĩa là mình làm chủ được – làm cho cái gì từng xa lạ trở nên quen thuộc với mình. Tự do là chính mình trong cái khác với mình. Muốn biến thế giới này thành một thế giới nhân đạo, quê hương để con người cư ngụ được, anh phải đủ năng lực tư duy để nắm bắt được nó. Mà anh suy nghĩ về thế giới là suy nghĩ bằng những phạm trù. Phạm trù anh vươn lên tới đâu, tự do của anh vươn lên tới đó. Nhưng, phải biết rằng không có tự do học thuật thì không có tự do tư duy.
Sự suy nhược (theo ông nhận định) của khoa học xã hội và nhân văn hiện nay tại Việt Nam nói lên điều gì và dẫn đến hậu quả gì?
Nói đến “khoa học” là nói đến tính khách quan, tính chính xác, tính chất khảo cứu, tính độc lập của tư tưởng, tính sáng tạo và mới mẻ trong quan niệm. Các tính chất ấy hiện ta đều thiếu cả. Đó là do sự “bao cấp về tư tưởng” trong nhiều năm, dẫn đến sự xem nhẹ vai trò của KHXH & NV, thậm chí ngộ nhận về chức năng của nó khi biến nó thành công cụ nhất thời và thiển cận. Và khi “công cụ” này tỏ ra không mấy hiệu quả, càng dễ xem nó là vô ích và nguy hiểm. Trong khi đó, kinh nghiệm lịch sử ở các nước cho thấy: nền KHXH & NV phát triển thường mở đường cho việc thay đổi cách nhìn, cách nghĩ của toàn xã hội, từ đó ảnh hưởng sâu sắc đến việc lựa chọn con đường phát triển của đất nước. Nó không chỉ là môi trường tạo ra những nhà văn hóa, nhà tư tưởng mà còn dọn miếng đất phì nhiêu, thuận lợi cho việc phát triển các ngành khoa học, công nghệ một cách lành mạnh, và nói chung, cho một nền văn hóa và kinh tế bền vững, nhân đạo."
Lại liên quan tới TH có thể xem gợi mở này của ‘đại ca’ thật hấp dẫn “Đằng sau nét cọ hồn nhiên và lời dẫn chuyện gọn gàng, chuẩn xác, ta có thể nhận ra chủ trương biên soạn thật nghiêm túc của các tác giả: triết học và khoa học không phải là sản phẩm ngẫu nhiên của những thiên tài cô độc, không phải là những “định luận” nhất thành bất biến, mà là nỗ lực suy tư không ngừng nghỉ của nhiều thế hệ kế tiếp nhau, là một cuộc đối thoại có thể tái hiện lại được, trong đó mỗi quan điểm có thể được hiểu như lời giải đáp với các câu hỏi của tiền nhân và gợi mở những câu hỏi mới cho kẻ đến sau. Triết học và khoa học cũng không phải là công việc riêng của những chuyên gia, mà liên quan đến mọi người và cần được mọi người tiếp nhận và chia sẻ. Sự phong phú, đa dạng của tri thức nhân loại không làm ta “choáng ngợp”, mà trái lại, kích thích lòng khao khát hiểu biết và gợi hứng cho ta vươn tới những chân trời mới mẻ, những nỗ lực tìm tòi sâu sắc hơn, nhất là trong bối cảnh của cuộc giao lưu và hội nhập quốc tế đang ngày càng sôi động hiện nay.Hy vọng rằng bộ Nhập môn này – đang được đón nhận nồng nhiệt ở nhiều nơi trên thế giới – cũng sẽ được người đọc nước ta, nhất là các bạn trẻ, vui vẻ chọn làm người bạn đồng hành trên con đường khám phá và khai phóng.Xin chân thành hoan nghênh sáng kiến của Nhà xuất bản Trẻ và hoan hỉ giới thiệu cùng bạn đọc.” Trích trong: Nhập môn triết học và khoa học – (nhóm dịch giả) Bùi Văn Nam Sơn và Vũ Ngọc Thăng hiệu đính
+ Hay trong bài: Tin và đáng tin – Bùi Văn Nam Sơn (22.1.2009) Và đặc biệt đoạn này: “Trẻ em đặt trọn lòng tin vào người lớn cho tới khi chúng... thất vọng. Đó là cái giá khá đau đớn phải trả cho sự trưởng thành, tức cho sự thức tỉnh và mất ảo tưởng. Nhưng, nếu được hưởng một nền giáo dục tốt, vết thương ấy sẽ được chữa lành, thậm chí không để lại sẹo, mà còn thăng hoa thành tinh thần hoài nghi khoa học. Tinh thần ấy không làm thui chột lòng tin, trái lại, khi đã đủ mạnh, nó giúp giữ vững lòng tin vào những gì xứng đáng để tin.”
Đoạn này: “Nguy hiểm hơn, việc mất lòng tin xã hội sớm muộn sẽ làm suy giảm tiềm lực đáp ứng yêu cầu của cả hệ thống: “do thiếu lòng tin, nhiều yêu cầu vốn chỉ có thể được thỏa mãn ở dài hạn sẽ đòi hỏi phải được đáp ứng cùng một lúc và trong thời gian ngắn, điều ấy sẽ phá vỡ các khả năng đáp ứng của toàn hệ thống. Dường như chúng ta đang ở đúng vào thời điểm nguy kịch này” (Luhmann).”
Đoạn này: “Như thế, bao lâu người ta còn dành lòng tin cho các định chế, chúng mới có thể xác lập được sự đáng tin cậy trong hành động. Tự bản thân các định chế là không đủ để mang lại lòng tin cũng như để xây dựng các hình thức giao tiếp dân chủ, đoàn kết. Ở các nước đang chuyển đổi (chẳng hạn các nước Đông Âu cũ), việc thiết lập các định chế mới mẻ chỉ là bước đầu, dù là quan trọng.
Điều tương tự cũng đã diễn ra: 20 năm sau ngày thiết lập các định chế dân chủ ở nước Đức hậu - phát xít, triết gia Karl Jaspers vẫn chưa thấy thể chế ấy đã được cắm sâu vào “lòng” nhân dân. Ông viết: “Trong thực tế, ta vẫn chưa có được mục tiêu chính trị được cắm sâu vào lòng dân, chưa có được cái ý thức tự đứng vững trên đôi chân của mình... Nhân dân nước ta không có tinh thần dân chủ. Ta có một hình thức chính thể đại nghị gọi là dân chủ, nhưng lại được thiết kế để làm vẩn đục hơn là khích lệ ý thức dân chủ” (Cộng hòa liên bang đi về đâu? 1966, tr. 177-178).
Các kinh nghiệm lịch sử ấy cho thấy sự cần thiết phải nêu bật những điều kiện để biến sự thừa nhận những định chế một cách đơn thuần hình thức thành một sự thừa nhận đích thực và thành thực. Sự ổn định của một chế độ xã hội vẫn chưa được bảo đảm bao lâu người ta chưa thể đoan chắc rằng nó sẽ được nhân dân bảo bọc và bảo vệ khi lâm vào những thời kỳ khủng hoảng hoặc bị suy yếu về năng lực chế tài (do tham nhũng, thối nát, bất lực...).”
Đoạn này: “Lòng tin không thể mua mà có, không thể ra lệnh mà được, không thể học hay dạy mà cần thời gian để thử thách ở cả hai chiều: tin có nghĩa là tin nhau. Lòng tin không thể mua bán nhưng lại cần phải được “đầu tư” lâu dài, giống như không ai có thể tiếp tục rút tiền khỏi tài khoản để tiêu xài thoải mái mà không chịu khó thường xuyên đóng tiền vào. Có vẻ lạ thường, nhưng như đã nói trên, lòng tin gắn liền với một loạt những nghịch lý nan giải. Chúng ta vẫn phải hành động đôi khi mù quáng khi không có lựa chọn nào khác”
Xin mượn câu “Câu chuyện nghiêm chỉnh nào cũng cần trở nên vui vẻ, và câu chuyện vui vẻ có khi cũng cần trở nên nghiêm chỉnh trong bài: “Chuyện xưa, chuyện nay : Tư tưởng đổi thay số phận”  để thưởng thức một bài vui vui và nhẹ nhàng lại sâu lắng của “đại ca” nữa trước khi kết thúc: http://amvc.free.fr/Damvc/GioiThieu/BuiVanNamSon/DapThanhHoiCuHaoHoaBVNS.htm
The end!
(Các bài trích dẫn có thể dễ dàng tìm thấy qua sự trợ giúp tìm kiếm từ google, bằng cách gõ tên bài đó google sẽ cho ra kết quả)

Thứ Sáu, 4 tháng 5, 2012


Không khí Việt Nam ô nhiễm nhất thế giới?

04/05/2012 10:37
Theo Chỉ số hiệu suất môi trường (EPI) 2012 do các tổ chức quốc tế vừa công bố, chỉ số hiệu quả hoạt động môi trường chung của Việt Namnăm 2012 xếp ở vị trí 79/132 quốc gia.
Dù không quá chú ý vào việc xếp hạng, song những con số khẳng định chất lượng môi trường đô thị của Việt Namthuộc nhóm 10 nước tệ hại nhất trên toàn cầu cũng khiến các nhà quản lý môi trường đáng suy nghĩ.

PGS.TS Bùi Cách Tuyến, Thứ trưởng Bộ TN-MT thẳng thắn nhìn nhận: “Không nên bi quan mà phải dựa vào những thông tin đó để tìm cách cải thiện tình trạng ô nhiễm không khí hiện nay”.

Theo Báo cáo môi trường có tên gọi là “The Environmental Performance Index” - gọi tắt là EPI 2012 do Trung tâm nghiên cứu thuộc đại học Yale và đại học Columbia của Hoa Kỳ cùng với Liên hiệp Châu Âu thực hiện, ề chỉ số môi trường tổng quát, Việt Nam hiện đứng thứ 79 trong tổng số 132 nước được khảo sát. Chỉ số môi trường không khí, Việt Namhiện đứng thứ 123 trên 132 nước được xếp hạng, và theo dự báo, sẽ tiếp tục rớt hạng trong thời gian tới.
Ô nhiễm không khí ở TP.HCM (Ảnh: Nguyễn Hữu)Trước công bố này, Thứ trưởng Bùi Cách Tuyến đã đưa ra quan điểm của Bộ TN-MT rằng bảng xếp hạng môi trường này có nhiều chỉ số không chính xác, nhưng xét trên bình diện tổng quan, phải thừa nhận là chất lượng không khí của Việt Nam không tốt.

GS-TSKH Phạm Ngọc Đăng, Chủ tịch Hội Môi trường đô thị Việt Nam cũng thẳng thắn, số liệu quan trắc môi trường nhiều năm qua chứng tỏ rằng thực tế môi trường không khí ở các đô thị Việt nam chủ yếu là bị ô nhiễm rất nặng về bụi.

Thế nhưng, GS-TSKH Đăng cũng cho rằng, xét về khí ô nhiễm độc hại như SO2, NO2, CO thì môi trường không khí ở Việt Nam chưa bị ô nhiễm, còn tốt hơn so với nhiều đô thị trên thế giới và trong khu vực, như là Bắc Kinh, New Deli, Bangkok... Thêm nữa, ô nhiễm bụi nặng nề ở nước ta chủ yếu ở các thành phố lớn, đặc biệt là ở Hà Nội, TP HCM và các thành phố loại 1, loại 2, như là Hải Phòng, Nam Định, Việt Trì, Cần Thơ, Buôn Ma Thuột..., trừ TP Đà Nẵng (năm 2011 TP Đà Nẵng được Ban Thư Ký ASEAN công nhận là 1 trong 10 thành phố có không khí sạch trong ASEAN), chất lượng môi trường không khí ở nhiều đô thị loại vừa và loại nhỏ của nước ta còn rất tốt.

Là một nhà khoa học nghiên cứu về môi trường nhiều năm, PGS-.TS Nguyễn Đình Hòe, Khoa Môi trường, Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội tỏ ra không có gì đáng ngạc nhiên. PGS-TS Hòe nói: “Bụi là đúng rồi. Chẳng có đô thị nào như Hà Nội hay TP.HCM lại suốt ngày đào bới như một công trường xây dựng như vậy”.

Dù tôn trọng ý kiến của tổ chức khoa học đã công bố, song PGS-TS Hòe cho rằng họ có thể nghiên cứu theo tiêu chuẩn và cơ sở thực nghiệm riêng, không nên chú ý vào thang tiêu chuẩn nhất, nhì, ba. Tuy nhiên, PGS-TS Hòe nhận xét, đúng là cách quản lý đô thị của Việt Nam có “vấn đề” mới để xảy ra tình trạng bụi khủng khiếp như thế. “Đi đâu cũng thấy bụi và ngột ngạt vô cùng”, TS Hòe nói.

GS-TSKH Phạm Ngọc Đăng cũng đã chỉ ra nguồn gây ô nhiễm không khí chính ở các đô thị chính là hoạt động xây dựng, giao thông… Do vậy, cần khắc phục và giảm thiểu triệt để ô nhiễm không khí trong các lĩnh vực hoạt động này. Ngoài ra, cơ quan quản lý môi trường phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường (BVMT), xử lý một cách nghiêm minh, công bằng, công khai, minh bạch và xử phạt kinh tế một cách đủ sức răn đe đối với các hành vi vi phạm luật pháp về BVMT. GS-TSKH Đăng cũng kiến nghị cần ban hành Luật Không khí sạch. “Hiện rất nhiều nước trên thế giới đã có luật Không khí sạch từ lâu”, GS-TSKH Đăng nói.

Chất lượng
Đánhgiá xu hướng thay đổi
Mức độ tổng hợp
Chỉ số
Xếp hạng
(trên tổng số 132 quốc gia)
Chỉ số
Xếp hạng
Chỉ số chất lượng môi trường
50,6
79
4,2
73
Sức khỏe môi trường
51,6
91
20,4
31
Không khí (ảnh hưởng tới sức khỏe con người)
31
123
-12,1
125
Gánhnặng lây bệnh từ môi trường
66,4
77
24,2
36
Nước (ảnh hưởng tới sức khỏe)
42,5
80
45,2
5
Sức sống hệ sinh thái
50,2
62
-9,0
112
Các chỉ số môi trường của Việt Nam
EPI xếp hạng các nước dựa trên chỉ số đánh giá việc thực hiện các chính sách liên quan đến môi sinh-y tế và chất lượng hệ sinh thái. Các chỉ số này là một trong các thước đo đánh giá ở cấp độ quốc gia, xem mỗi quốc gia đã tiến gần đến mục tiêu đặt ra về môi trường hay chưa.
Theo đó, chỉ số hiệu quả hoạt động môi trường chung của Việt Namnăm 2012 xếp ở vị trí 79/132 quốc gia. Chỉ số chất lượng không khí gây ảnh hưởng tới sức khỏe ở Việt Namxếp thứ 123/132 quốc gia. Đáng lo ngại hơn, chỉ số này có nguy cơ rơi xuống trong khi các chỉ số môi trường khác cũng thuộc hàng báo động.
Chỉ số gánh nặng lây bệnh từ môi trường của Việt Namxếp hạng 77, còn chất lượng nước xếp thứ 80.