Thứ Hai, 12 tháng 11, 2012


Chủ tịch HĐQT Cty CP Gạch Khang Minh:

Vật liệu thân thiện môi trường, chất lượng tốt, giá rẻ sẽ “lên ngôi”

26/10/2012 18:09
Năm 2012 là một năm đầy khó khăn với nền kinh tế Việt Nam. Thị trường BĐS tiếp tục đà suy thoái, kéo theo sự đình đốn của hàng loạt các DN sản xuất VLXD. Vậy mà, trong bối cảnh ấy, từ 2 dây chuyền sản xuất gạch không nung xi măng cốt liệu (XMCL) hiện có (tại nhà máy ở CCN Tây Nam TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam), Cty CP Gạch Khang Minh vẫn đầu tư và đưa vào vận hàng dây chuyền thứ 3. Chia sẻ với phóng viên Báo Xây dựng, Chủ tịch HĐQT Công ty CP gạch Khang Minh, ông Đặng Việt Lê cho biết: cuối năm 2011, nhà máy vận hành hết công suất vẫn không đủ gạch để bán. Tín hiệu từ thị trường vẫn rất tốt nên chúng tôi quyết định đầu tư giai đoạn 2 của nhà máy theo đúng lộ trình ban đầu.

Chủ tịch HĐQT Cty CP Gạch Khang Minh Đặng Việt Lê
Tín hiệu tốt từ thị trường
PV: Có thể nói, gạch không nung vẫn đang trong quá trình hình thành và tìm kiếm chỗ đứng trên thị trường VLXD Việt Nam. Trên các phương tiện truyền thông, khi nhắc đến gạch không nung, người ta thường nhắc nhiều hơn đến gạch nhẹ. Trong khi đó, gạch XMCL không phải là gạch nhẹ. Liệu Khang Minh có bơi ngược dòng?
Ông Đặng Việt Lê: Đây chính là điều mà chúng tôi trăn trở vào thời điểm quyết định đầu tư nhà máy gạch XMCL. Nhưng chúng tôi đã tính toán kỹ lưỡng và sớm nhận thấy tính ưu việt của gạch XMCL. Đây là dòng sản phẩm của tương lai, có những lợi thế nhất định, phù hợp với chủ trương và định hướng phát triển VLXD Việt Nam của Chính phủ về việc thay thế dần gạch đất sét nung bằng những vật liệu thân thiện với môi trường là gạch không nung.
Sở dĩ lúc đó chúng tôi nhận định như vậy vì gạch XMCL rất phù hợp với điều kiện của đất nước. Làm gạch, trước tiên phải xét đến yếu tố vùng nguyên liệu. 2 nguyên liệu đầu vào chính của gạch XMCL là mạt đá (phụ phẩm của các mỏ khai thác đá) và xỉ ron (phế phẩm của nhà máy nhiệt điện) đều cực kỳ dồi dào. Tỉnh Hà Nam có rất nhiều mỏ đá nên chúng tôi quyết định đặt nhà máy đầu tiên tại đó để tận dụng ưu thế về nguồn nguyên liệu và tạo lợi thế cạnh tranh cho công ty.
Nhà máy Gạch Khang Minh được đầu tư bài bản
Trong thành phần của gạch XMCL, xi măng đóng vai trò liên kết các thành phần của gạch nhưng chỉ chiếm khoảng 10%. Gạch XMCL hoàn toàn không nung đốt hay chưng áp, không tiêu hao nhiều năng lượng, lại tận thu được phụ phẩm của các ngành sản xuất công nghiệp khác nên rất thân thiện với môi trường. Hiệu quả sản xuất, kinh doanh thực tế đã chứng minh sự lựa chọn của chúng tôi là đúng đắn.
PV: Như ông vừa đề cập, gạch XMCL thương hiệu Khang Minh xuất hiện trên thị trường khoảng một năm rưỡi nhưng đã sớm khẳng định được mình. Vậy điều gì làm nên sức hấp dẫn của gạch XMCL nói chung, gạch Khang Minh nói riêng?
Ông Đặng Việt Lê: Gạch XMCL có cường độ chịu lực tốt hơn gạch đất sét nung và rất tiện dụng. Gạch XMCL dùng vữa xây trát thông thường. Quá trình xây dựng không phức tạp, rất thuận tiện để tạo ra thói quen tiêu dùng. Hơn thế giá thành gạch XMCL rẻ hơn so với đất sét nung.
Gạch XMCL rẻ vì nhiều yếu tố. Chẳng hạn, suất đầu tư nhà máy sản xuất gạch XMCL rẻ hơn nhà máy gạch nung một nửa. Tính theo thời giá cách đây 2 năm, thời điểm chúng tôi đầu tư, một nhà máy quy mô 30 triệu viên gạch quy tiêu chuẩn/năm thì với gạch đất sét nung khoảng 30 tỷ đồng, còn gạch XMCL chỉ cần 15 tỷ đồng. Và như đã đề cập, nguyên vật liệu đầu vào của gạch XMCL dồi dào, rất rẻ, dẫn đến giá thành sản phẩm rẻ. Hiệu suất hoạt động của nhà máy gạch XMCL cũng rất cao, không phụ thuộc vào thời tiết như nhà máy gạch nung…
Riêng với các sản phẩm gạch XMCL của Khang Minh, chúng tôi bổ sung thêm những giá trị gia tăng khác như mẫu mã đa dạng. Hiện nay Khang Minh có 15 mẫu, nhiều mẫu nhất trong các nhà máy gạch XMCL, bao gồm từ gạch đặc dùng để xây móng, xây tường chịu lực đến đến gạch rỗng phục vụ xây tường bao, tường ngăn. Kích thước gạch phong phú, đáp ứng mọi quy chuẩn về độ dày tường xây, giúp thi công nhanh, giảm chi phí nhân công và thời gian hoàn thiện công trình. Điều này đồng nghĩa với việc tiết kiệm chi phí cho chủ đầu tư dự án BĐS. Mẫu mã sản phẩm nhiều không chỉ tăng sự lựa chọn cho khách hàng mà đồng thời tăng khả năng cạnh tranh của chính Khang Minh.
Cách đây 3 tháng, Khang Minh đã chủ động cải tiến kỹ thuật, điều chỉnh tỷ lệ phối trộn vật liệu và đã bổ sung thêm cho gạch XMCL của mình một giá trị nữa là khả năng chống thấm rất cao, tốt hơn hẳn các loại gạch khác. Sự thay đổi này chỉ thực hiện được ở những nhà máy được đầu tư công nghệ ban đầu tốt. Khang Minh tự hào là đã đầu tư hệ thống dây chuyền máy móc thiết bị sản xuất công nghiệp hiện đại, tự động hóa cao, sản lượng cao và ổn định.

Khang Minh luôn hoạt động với công suất nhất định và duy trì lượng hàng tồn kho nhất định để phục vụ khách hàng trong bất kỳ thời điểm nào
Chiến lược kinh doanh mở
PV: Trở lại với diễn biến của thị trường VLXD trong thời điểm hiện nay. Khủng hoảng kinh tế và sự suy thoái của thị trường tác động như thế nào đến Cty CP Gạch Khang Minh?
Ông Đặng Việt Lê: Cũng như nhiều đơn vị cung cấp VLXD khác, chúng tôi không tránh khỏi khó khăn. Tuy nhiên, nhà máy vẫn bảo đảm được những hoạt động căn bản, sản xuất tuy chậm lại nhưng chưa phải cắt giảm lao động. Cty vẫn duy trì sản xuất 3 dây chuyền, 5 ngày/tuần, 1 ca/ngày. Sản phẩm của Khang Minh hiện có mặt ở nhiều dự án lớn là các khu đô thị mới, các chung cư cao tầng, các khu công nghiệp, nhà máy …
PV: Bí quyết gì giúp Khang Minh trụ được trong “cơn bão” suy thoái?
Ông Đặng Việt Lê: Khang Minh hoạt động theo mô hình Cty mở, tích hợp nguồn lực bên trong và bên ngoài DN để tạo thành một hệ thống kinh doanh có lợi thế cạnh tranh và được chuyển hóa lợi thế thành sức mạnh thị trường. Có thể hình dung đơn giản như thế này, ở Việt Nam hay có mô hình “làm tất ăn cả”. DN đảm nhiệm từ A đến Z, từ vận chuyển vật liệu đầu vào, sản xuất, tiếp thị, bán hàng, vận tải… Còn Khang Mình thì vận hành theo mô hình DN mở. Trong các khâu sản xuất, kinh doanh, nghiệp vụ gì chính, thuộc sở trường của Khang Minh và phù hợp với nguồn lực của mình thì chúng tôi đi sâu vào. Những gì không thuộc sở trường thì chúng liên kết với các đối tác bên ngoài. Cụ thể, Khang Minh chỉ tập trung nguồn lực vào việc sản xuất, phát triển sản phẩm, làm sao để có những sản phẩm tốt nhất, chất lượng cao, mẫu mã đa dạng, giá thành rẻ. Chúng tôi không tham gia bán hàng trực tiếp, thay vào đó mở rộng hợp tác với các Cty thương mại, đại lý VLXD chuyên nghiệp bán hàng cho Khang Minh. Chúng tôi vẫn hỗ trợ đối tác bán hàng bằng cách tổ chức các sự kiện giới thiệu sản phẩm, tư vấn cho khách hàng, tiếp cận khách hàng tiềm năng, tiếp cận các kiến trúc sư, tư vấn thiết kế, các nhà đầu tư… nhưng đến khi ký hợp đồng thương mại thì Khang Minh không ký trực tiếp mà ủy quyền đến đại lý thực hiện.
Một cách hỗ trợ đối tác khác mà Khang Minh áp dụng là nhà máy luôn hoạt động với công suất nhất định và duy trì lượng hàng tồn kho nhất định để phục vụ khách hàng trong bất kỳ thời điểm nào. Điều này đòi hỏi phải DN có đủ các nguồn lực như năng suất sản xuất, diện tích lưu kho, khả năng tài chính… Những nguồn lực này thì Khang Minh đã chuẩn bị đầy đủ cho mình.

Gạch XMCL Khang Minh có mặt ở nhiều dự án khu đô thị mới, các chung cư cao tầng, các khu công nghiệp, nhà máy…
Đây chính là những cách chúng tôi duy trì hệ thống đại lý cũng như tạo niềm tin với khách hàng. Chúng tôi đã đạt được niềm tin đối với các đại lý bán hàng, các đối tác kinh doanh bằng năng lực thực tế của chúng tôi, bằng việc giữ đúng các cam kết ban đầu... Hiện tại, Khang Minh có hơn 10 đối tác là các công ty thương mại và đại lý bán hàng. Trong tương lai, chúng tôi hy vọng có được nhiều hơn sự hợp tác của các đối tác khác để cùng hợp tác kinh doanh và phát triển thị trường.
PV: Ông nhận định như thế nào về cơ hội phát triển của gạch XMCL trong thời gian tới?
Ông Đặng Việt Lê: Như đã phân tích ở trên, gạch XMCL có những lợi thế nhất định, thân thiện với môi trường, phù hợp với chủ trương và định hướng phát triển ngành VLXD Việt Nam.Theo tôi, những khó khăn của thị trường BĐS hiện nay cũng là cơ hội cho VLXD chất lượng cao, giá rẻ như gạch XMCL. Bởi chính các nhà đầu tư BĐS cũng đang nỗ lực tìm kiếm vật liệu giá rẻ nhằm giảm giá thành sản phẩm. Chúng tôi khẳng định tất cả các chủng loại sản phẩm của Khang Minh đều đạt và vượt tiêu chuẩn chất lượng của Bộ Xây dựng, được kiểm định tại các đơn vị chuyên môn như Tổng cục Đo lường chất lượng, Viện VLXD, Viện KHCN Xây dựng. Sản phẩm gạch XMCL Khang Minh luôn có giá cạnh tranh, luôn rẻ hơn gạch đất sét nung từ 15% đến 25%.

Xử lý vấn đề vệ sinh, nước, rác thải: Kinh nghiệm nào cho Việt Nam?


Là không gian sống của 50% dân cư trên trái đất, các đô thị trên thế giới đã sản sinh 80% lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính và cũng là nơi phát thải các chất gây ô nhiễm nhiều nhất. Để cứu trái đất khỏi ô nhiễm, nhiều nước trên thế giới đang tích cực nghiên cứu, thiết kế nhằm xây dựng điểm dân cư sinh thái, đô thị sinh thái, xử lý tốt các vấn đề vệ sinh, nước, rác thải….
Vệ sinh sinh thái: mô hình cần nhân rộng
Không còn những nhà vệ sinh sập sệ, không còn nguồn thải “kinh khủng” gây ô nhiễm môi trường, vệ sinh sinh thái – mô hình vệ sinh mới dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản là ngăn ngừa ô nhiễm, tách riêng nước tiểu và phân, sử dụng các sản phẩm phục vụ cho nông nghiệp, đã tỏ rõ ưu điểm vượt trội đầy thuyết phục, giúp ngăn ngừa ô nhiễm, bệnh tật liên quan đến phân người, quản lý sử dụng nước tiểu, phân như một nguồn tài nguyên hơn là chất thải, thu hồi, tái chế, tái sử dụng các chất dinh dưỡng trong đó để sử dụng trong nông nghiệp.
Thành phố Erdos nằm phía Tây Nam khu tự trị Nội Mông, thuộc Bắc Trung Quốc được biết đến với dự án vệ sinh bền vững mang tên thành phố sinh thái Erdos do Tổ chức Hợp tác Phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA) tài trợ.Hơn 830 hộ gia đình sống trong các chung cư được sử dụng hệ thống vệ sinh riêng biệt với tính năng thu gom - phân lập nước tiểu và phân, xử lý nước thải từ nhà bếp và máy giặt, phân loại và thu gom rác thải khô, chế thành phân trộn để tái sử dụng trong nông nghiệp.
Nước tiểu được đưa vào bồn chứa âm trong lòng đất, sau đó được xử lý để tái dùng trong canh tác, còn nước thải sinh hoạt thì được xử lý tại chỗ và tái sử dụng để tưới cây cỏ. Chất thải rắn được phân loại và tái chế còn chất thải hữu cơ thì trộn với phân. Riêng phân được đưa xuống tầng hầm chung cư, trữ ở đó 3 - 4 tháng trước khi chuyển đến nhà máy xử lý thành phân trộn để bón cho hoa màu. Hệ thống vệ sinh sinh thái ở Erdos đã tạo thành chu trình khép kín: con người –> nước tiểu và phân –> phân bón an toàn –> đất –> cây trồng –> thực phẩm –> con người. Đây được coi là giải pháp vệ sinh bền vững, giảm ô nhiễm xuống bằng không, góp phần bảo vệ tối đa môi trường.
Quản lý rác thải đô thị tiên tiến như Singapore
Không chỉ là quốc đảo xinh đẹp nổi tiếng, Singapore còn được biết đến với hòn đảo Semakau nhân tạo độc nhất vô nhị làm từ rác. Năm 1999, bãi rác cuối cùng trên đất liền ở Lorong Halus đóng cửa cũng là thời điểm Singapore khánh thành đảo nhân tạo đầu tiên trên thế giới làm hoàn toàn từ… rác thải này. Với diện tích 350 ha, cách đất liền Singapore 8 km về phía Nam, đảo chứa rác Semakau chứa được 63 triệu mét khối rác, đáp ứng đủ nhu cầu chứa rác của Singapore đến năm 2045. Nhờ vào các khâu hoạch định, thiết kế và xây dựng, kể từ khi đi vào hoạt động, bãi rác Semakau bảo vệ tốt hệ sinh thái và môi trường tự nhiên phong phú, trở thành điểm du lịch sinh thái hấp dẫn, hàng năm đón nhiều du khách đến tham quan, câu cá, quan sát các loài chim, ngắm trăng sao, vui chơi giải trí và hoạt động ngoại khóa…
Ngoài bãi rác Semakau, rác thải còn được xử lý bằng phương pháp đốt, công nghệ hiện đại tại 5 nhà máy công suất 9.000 m3/ngày đảm bảo tiêu chuẩn môi trường. Nhiệt lượng thu từ các lò đốt được dùng để phát điện còn các chất tái chế như giấy, chai lọ, dầu thải công nghiệp được xử lý, sử dụng lại.
Còn ở đất nước mặt trời mọc, việc phân loại nguồn rác thải được thực hiện rất tốt, tái chế rác thải đô thị cũng được ưu tiên hàng đầu với nguyên tắc tốn kém cũng tái chế. Theo Bộ Môi trường Nhật Bản, hàng năm nước này có khoảng 450 triệu tấn rác thải, trong đó 397 triệu tấn là rác công nghiệp. Trong tổng số rác thải trên, chỉ có khoảng 5% trong tổng số rác thải trên phải đưa tới bãi chôn lấp, 36% được tái chế, còn lại rác khó phân hủy được sử dụng công nghệ đốt hoặc đóng rắn rồi đem chôn lấp.
Việc tái chế rác ở Nhật Bản rất công phu: 70% rác nhà bếp được tái chế thành phân bón hữu cơ, góp phần cải tạo đất, giảm bớt nhu cầu sản xuất và nhập khẩu phân bón. Phế thải xây dựng được thu gom chuyển đến nhà máy chuyên tái chế thành cát và sắt thép. Mặc dù chi phí cho xử lý rác khá tốn kém, khoảng 300 nghìn yên (khoảng 2.500 USD)/người/năm nhưng đã giúp Nhật Bản giảm được lượng rác thải ra môi trường, tạo công ăn việc làm cho người lao đông, tạo thêm hàng hoá sử dụng, thay thế một phần nguyên liệu đầu vào do đó tiết kiệm được tài nguyên và công khai thác.
Thoát và xử lý nước thải bền vững
Nhiều nước trên thế giới đã phát triển mô hình khu đô thị sinh thái, trong đó thoát nước đô thị bền vững, thu gom và tái sử dụng nước mưa được lồng ghép hài hòa với các giải pháp quy hoạch đô thị, kiến trúc và kỹ thuật hạ tầng. Hệ thống thoát nước ở Soul (Hàn Quốc) là một ví dụ. Ở TP này việc cấm đào núi, lấy đất ruộng, san lấp hồ ao, kênh rạch đã trở thành quy định bắt buộc. Hồ, sông bị san lấp nay phải đào lại, đơn cử như Mương Chân Kây rộng 15m chạy giữa Soul dài gần 50 km dù đã bị lấp và xây dựng nhà cửa nhưng được phục hồi thành một công viên dài 50 km, trở thành lá phổi và là hệ thống thoát nước mưa chính của thủ đô Hàn Quốc.
Còn ở hòn đảo du lịch Phi Phi (Thái Lan) thì được xây dựng một hệ thống xử lý nước thải phân tán đẹp và hiệu quả cho các khách sạn, nhà hàng, công suất 400 m3/ngày, gồm bể tự hoại, chuỗi bãi lọc ngầm trồng cây dòng chảy thẳng đứng và dòng chảy nằm ngang, kết hợp với bãi lọc trồng cây ngập nước và hồ sinh học được bố trí trong khuôn viên khu nghỉ dưỡng. Nước thải sau xử lý được tái sử dụng cho tưới vườn.

Thứ Sáu, 28 tháng 9, 2012


Thực trạng cấp nước sạch đô thị: Dân đang tự làm bẩn hệ thống

28/09/2012 10:42
Về việc cấp nước đô thị, ngay từ năm 2007 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 117/2007/NĐ-CP về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch bao gồm các hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch trong các hệ thống cấp nước tập trung ở khu vực đô thị, nông thôn…Tuy nhiên cách cấp nước hiện nay tại Hà Nội và một số đô thị đang gặp phải nhiều bất cập, đó là việc chỉ cung cấp nước đến cửa nhà, cung cấp theo tuyến trên một mạng lưới chằng chịt, thiếu đồng bộ. Điều này đã “đẩy” người dân phải đầu tư hệ thống ống dẫn, bể chứa, máy bơm để chứa nước dự trữ. Do đó trong quá trình dự trữ nước tại gia đình đã vô tình tự làm bẩn nguồn nước.

Để có nước sạch nhiều hộ gia đình phải tự mua sắm hệ thống tích trữ nước sạch tại nhà
Nghị định 117 đã quy định các quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân và hộ gia đình tham gia vào các hoạt động có liên quan đến sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch ở Việt Nam. Qua một thời gian ngắn áp dụng, Nghị định số 124/2011/NĐ-CP ngày 28/12/2011 sửa đổi Nghị định 117/2007/NĐ-CP về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch cũng đã được kịp thời ban hành, cập nhật những điều chỉnh cho Nghị định số 117/2007/NĐ-CP.
Có thể thấy, thời gian qua, hệ thống cấp nước sạch tại các đô thị Việt Nam đã được Nhà nước quan tâm ưu tiên đầu tư cải tạo và xây dựng, tuy nhiên hiện nay việc cấp nước sạch sinh hoạt cho người dân vẫn còn nhiều bất cập. Những bất cập này thể hiện ngay trong cách làm và những quy chuẩn chung để quy định chúng.
TS. Nguyễn Tiến Hóa, Giám đốc Sở Xây dựng Hải Dương phân tích: Ngày trước tại Hà Nội chúng ta thấy rằng người Pháp đã xây dựng nhiều tháp nước tại các khu dân cư. Tháp nước này có nhiệm vụ cung cấp nước sạch cho một cộng đồng dân cư trong khu vực phục vụ sinh hoạt, thế nhưng hiện nay tại nhiều đô thị những tháp nước như thế này đã không còn. Trở lại hệ thống cung cấp nước sạch mà chúng ta đang áp dụng hiện nay, các Cty nước sạch chỉ có trách nhiệm đưa đường ống đến cửa nhà hay đầu một con ngõ. Sau đó người dân có nhu cầu dung nước thì tự phải đầu tư ống dẫn, máy bơn, xây bể nước để tích nước sinh hoạt.
TS. Hóa phân tích thêm: Cách cung cấp nước sạch như hiện nay tại một số đô thị đã vô hình “đẩy” người dân vào chỗ tự làm bẩn hệ thống nước sạch của mình, ngoài ra còn tốn tiền trong việc đầu tư hệ thống tích giữ nước. Thứ nhất là tại các khu dân cư đông đúc, hệ thống mạng nước sạch luôn bị quá tải, nước chảy rất chậm do đó để có đủ nước phục vụ sinh hoạt thì người dân phải tự đầu tư hệ thống bể chứa và mua sắm máy bơm để đẩy nước vào bể chứa. Nếu có điều kiện thì người dân sẽ đầu tư những bể tốt, kín đáo đảm bảo không bị côn trung xâm nhập, còn với những bể được xây ngầm hoặc trên mái nhà thì ai dám chắc là không có sự thẩm thấu của nước bẩn, và côn trùng. Quá trình tích nước này đã vô tình làm bẩn chất lượng nước máy, và gây nguy hiểm cho người dùng.
Cũng theo TS.Hóa “Vậy câu hỏi được đặt ra là, tại sao hiện nay chúng ta không xây dựng những loại bể chứa tập trung tại các khu dân cư, đại loại như những tháp nước ngày trước để người dân không phải chật vật với tình trạng nhỏ giọt, hay mất nước vào giờ cao điểm như tại một số đô thị hiện nay”.
Theo thống kê, tại Việt Nam hiện có 68 Cty cấp nước, thực hiện cung cấp nước sạch cho các khu vực đô thị. Nguồn nước mặt chiếm 70% tổng nguồn nước cấp và 30% còn lại là nước ngầm. Có hơn 420 hệ thống cấp nước với tổng công suất thiết kế đạt 5,9 triệu m3/ngày. Công suất hoạt động cấp nước đạt mức 4,5 triệu m3/ngày tương đương 77% công suất thiết kế.

Nhiều hộ gia đình tại Hà Nội phải tự xây dựng hệ thống máy bơm để đẩy nước lên các tầng ngôi nhà
Tính đến cuối năm 2010, có 18,15 triệu người dân đô thị có thể tiếp cận được với nước sạch, chiếm 69% tổng số dân thành thị. Phần trăm số dân sử dụng nước sạch ở các đô thị được thống kê như sau: 70% dân số ở đô thị đặc biệt và đô thị loại I, 45-55% dân số ở đô thị loại II và II, 30-35% dân số ở đô thị loại IV và 10-15% dân số ở đô thị loại V. Theo đó, lượng nước sử dụng trung bình của các đô thị là 80-90 lít/người/ngày đêm; trong đó tại các thành phố lớn thì lượng nước này là 120-130 lít/người/ngày đêm (theo nghiên cứu Bench-marking, Ngân hàng Thế giới - Hội Cấp thoát nước Việt Nam). Các số liệu thực tế nêu trên đều thấp hơn kế hoạch mục tiêu quốc gia về phát triển cấp nước đô thị.
Theo Hội cấp thoát nước Việt Nam, công suất các hệ thống cấp nước còn hạn chế do sự đầu tư không đầy đủ các nhà máy xử lý nước, các mạng lưới đường ống truyền dẫn và phân phối nước sạch. Mặc dù công suất cấp nước đô thị hiện tại đã tăng lên gấp 3 và gấp 2 lần so với năm 1975 và 1990, tuy nhiên so quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, rất nhiều khu công nghiệp, KĐT mới được hình thành và dân số đô thị cũng tăng nhanh chóng, nên hệ thống cấp nước vẫn chưa đáp ứng được hết nhu cầu của dân cư thành thị. Bên cạnh đó, do những khó khăn về nguồn vốn đầu tư cũng như năng lực của các Cty cấp nước, sự thiếu đồng bộ khi quy hoạch phát triển hệ thống cấp nước và thực hiện quy hoạch, nên nhiều hệ thống cấp nước đã nâng cấp và nâng cao công suất, nhưng không hoạt động hết công suất.
Ngoài ra chưa kể đến việc để người dân tự mua sắm các trang thiết bị để trang bị cho hệ thống nước sạch, còn làm gia tăng tình trạng thất thoát nước sạch khá lớn hiện nay. Ông Nguyễn Hồng Tiến, Cục trưởng Cục Hạ tầng kỹ thuật, Bộ Xây dựng cho hay, Việt Nam có 755 đô thị với tỷ lệ đô thị hóa là 31% và sẽ đạt con số 50% trong năm 2025. Tuy nhiên, thất thoát nước đang là một trong những thách thức trong quá trình đô thị hóa khi tỷ lệ thất thoát nước của Viêt Nam lên tới 29%. Hiện cả nước hiện có 68 Cty cấp nước, mới chỉ cung cấp dịch vụ cho khoảng 70% dân số ở hơn 750 đô thị.
Cũng theo số liệu Bench-marking của Hội Cấp thoát nước Việt Nam do việc cấp nước không đủ 24 giờ/ngày nên việc giảm nhanh áp lực trong hệ thống phân phối, nước chỉ có thể chảy vào các bể chứa nước dưới đất của các hộ gia đình mà không thể tự chảy lên các bể ở cao hơn. Hơn nữa, chất lượng nước cấp đến các hộ gia đình cũng không hoàn toàn đảm bảo theo tiêu chuẩn vệ sinh, mặc dù chất lượng nước xử lý tại các máy nước có thể đạt các chỉ tiêu của nước cấp.
Nguyên nhân là do, nước được phân phối trong đường ống có áp lực thấp hay không có áp lực hay thậm chí có áp suất âm, và các đấu nối bị hỏng, những nguyên nhân trên khiến cho nước dễ dàng bị thấm khi vận chuyển trong đường ống nước. Khi áp lực nước bên trong ống tăng cao đến mức đủ cho nước có thể tự chảy (lớn hơn 0,6m/s), những cặn bẩn lâu ngày trong hệ thống ống có thể chảy lẫn trong ống và làm giảm chất lượng nước khi nước được cấp đến các hộ gia đình.

Thứ Ba, 25 tháng 9, 2012


Lọc nước uống an toàn bằng năng lượng mặt trời
Ngày 27/4, tại Thành phố Hồ Chí Minh, trong khuôn khổ chương trình đào tạo lãnh đạo thực tiễn lần thức 26, Học viện toàn cầu Vì ngày mai (GIFT) phối hợp cùng với Tổ chức Đông Tây Hội ngộ và Công ty F Cubed (Australia) đã giới thiệu công nghệ CarocellTM sử dụng năng lượng mặt trời trong việc khử muối và lọc nước.
​Theo ông Peter Johnstone, Giám đốc điều hành Công ty F Cubed, máy lọc nước bằng năng lượng mặt trời được hoạt động theo quy trình tự nhiên, có công nghệ đơn giản sử dụng một mảng mỏng, được mặt trời làm nóng nước, nước bốc hơi và ngưng tụ.

Sản phẩm lọc nước bằng năng lượng mặt trời có hai dạng gồm một loại uống được ngay, rất sạch và loại nước nóng dùng để nấu ăn, tắm rửa, sử dụng sinh hoạt hàng ngày.
Ngoài ra, loại máy có công nghệ khử mùi, lọc nước bằng năng lượng mặt trời là sản phẩm có năng suất tốt và hiệu quả nhất trên thị trường, tạo ra nước uống tinh khiết và an toàn với bất kỳ khối lượng nào, từ bất cứ nguồn nước nào.
Tổ chức Đông Tây Hội Ngộ đã có lắp đặt thử tại Việt Nam ở một số tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long và miền Trung đã cho kết quả rất khả quan, chứng minh khả năng khử muối trong nước nhiễm mặn và loại bỏ hàng loạt chất bẩn từ nguồn nước không tinh khiết từ công nghệ mới này.
Theo kế hoạch, GIFT, Tổ chức Đông Tây Hội Ngộ và Công ty F Cubed sẽ triển khai lắp đặt 500 máy lọc nước công nghệ CarocellTM tai các khu vực ngoại thành ba Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng.
Bà Nguyễn Minh Châu, Giám đốc Tổ chức Đông Tây Hội Ngộ, cho biết sản phẩm lọc nước bằng năng lượng mặt trời không chỉ đem đến việc cải thiện nguồn nước mà còn giúp cải thiện môi trường, sức khỏe của người dân.

quốc gia hưởng ứng Chiến dịch Làm cho thế giới sạch hơn năm 2012
Lễ phát động quốc gia hưởng ứng Chiến dịch Làm cho thế giới sạch hơn năm 2012

Sáng 15/9, cùng với hơn 130 quốc gia trên thế giới,  Bộ Tài nguyên và Môi trườngTổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đại sứ quán Australia tại Việt Nam và UBND thành phố Đà Nẵng đã phối hợp tổ chức Lễ phát động quốc gia hưởng ứng Chiến dịch Làm cho thế giới sạch hơn năm 2012 tại thành phố Đà Nẵng - Thành phố vừa được công nhận là thành phố bền vững về môi trường các nước ASEAN.
Tham dự Lễ phát động có đồng chí Đặng Ngọc Tùng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam;
Đồng chí Bùi Cách Tuyến, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; đồng chí Đặng Ngọc Tuấn,  Phó Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng; Ngài Hugh Borrowman, Đại sứ Australia tại Việt Nam;
Tham dự còn có đại diện các bộ, ban, ngành trung ương, Đại sứ quán Australia tại Việt Nam và hơn 1.500 cán bộ và người dân thành phố Đà Nẵng.
Chiến dịch Làm cho thế giới sạch hơn năm 2012 có chủ đề “Nơi sinh sống của chúng ta… Hành tinh của chúng ta… Trách nhiệm của chúng ta”, chủ đề này đã nhấn mạnh, nêu cao những hành động của mỗi cá nhân trong cộng đồng của mỗi địa phương, mỗi quốc gia, qua đó sẽ mang lại những tác động tích cực mang tính toàn cầu, đồng thời cũng đặt ra câu hỏi về trách nhiệm của mỗi chúng ta đối với những phúc lợi về môi trường ở mức độ cá nhân và cộng đồng; và khi làm tròn trách nhiệm trên sẽ góp phần vào những nỗ lực vì môi trường toàn cầu.
Theo kết quả nghiên cứu, tổng thiệt hại kinh tế của nước ta trong thời gian qua do ô nhiễm môi trường gây ra tối thiểu từ 1,5% - 3% GDP. Ngoài ra, theo tính toán của Ngân hàng Thế giới, mỗi năm Việt Nam còn phải chịu thiệt hại 780 triệu USD trong các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cộng đồng vì ô nhiễm môi trường (theo Báo cáo Môi trường quốc gia 2010).
Phát biểu tại buổi lễ, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Bùi Cách Tuyến đã  kêu gọi mọi tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, Bộ, ban ngành, các tỉnh, thành phố và các địa phương trong cả nước có những hành động thiết thực để bảo vệ môi trường; cùng nhau liên kết, tạo nên một sức mạnh to lớn để bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu vì sự phát triển bền vững của đất nước;
Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia về bảo vệ môi trường đến năm 2020; nghiên cứu, sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường 2005 cho phù hợp với yêu cầu của thời kỳ phát triển mới; thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường giai đoạn 2012 - 2015 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý triệt để các cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng…
Mỗi người đều có thể tham gia hưởng ứng Chiến dịch Làm cho thế giới sạch hơn bằng những việc làm thật đơn giản như phân loại, tái chế, tái sử dụng chất thải, hạn chế sử dụng túi nilon, sử dụng tiết kiệm nguyên nhiên liệu; cùng tham gia các hoạt động vệ sinh môi trường xung quanh gia đình, cơ quan, đường phố, công viên,…
Ông Hugh Borrowman, Đại sứ Australia tại Việt Nam cho biết Chính phủ Australia đã liên tục hỗ trợ kể từ khi Việt Nam tham gia vào chiến dịch toàn cầu này. Đây là cơ hội tốt để giáo dục học sinh và thanh niên về trách nhiệm của họ đối với môi trường.
Tại buổi lễ phát động, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trao tặng bằng khen cho 14 tập thế, cá nhân đã có thành tích tiêu biểu trong hoat động bảo vệ môi trường, góp phần xây dựng thành phố Đà Nẵng “Xanh-Sạch-Đẹp và phát triển bền vững”.
Ngay sau khi kết thúc Lễ phát động, các đại biểu và người dân của thành phố Đà Nẵng đã tiến hành ra quân vệ sinh môi trường và trồng cây xanh tại khu vực âu thuyền và cảng cá Thọ Quang (quận Sơn Trà); Ra quân vệ sinh môi trường cấp quận, huyện để hưởng ứng thu gom rác, làm sạch bờ biển và vớt rác trên kênh, mương thoát nước, nạo vét cống rãnh ở tất cả các quận, huyện của thành phố.
“Ngày hội tái chế chất thải và tiêu dùng xanh” được tổ chức tại Trường Tiểu học Lý Công Uẩn, thành phố Đà Nẵng, với các hoạt động chính như trưng bày, triển làm tranh ảnh về thảm họa môi trường, ô nhiễm đại dương... những nỗ lực bảo vệ môi trường của Đà Nẵng; thi làm các sản phẩm tái chế; trao đổi chất thải lấy quà tặng.... trao đổi kinh nghiệm xây dựng các mô hình bảo vệ môi trường, sử dụng năng lượng tái tạo...  Đây là một trong những hoạt động hưởng ứng Chiến dịch Làm cho thế giới sạch hơn năm 2012 tại Đà Nẵng.
Một số hình ảnh tại buổi lễ:
 
 

Việt Nam – Hàn Quốc: Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực môi trường
Sáng 19/9/2012, tại trụ sở Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thứ trưởng Bùi Cách Tuyến đã tiếp thân mật chủ tịch Cơ quan môi trường Hàn Quốc (KECO) Park Seung Hwuan. 
Tham dự cùng ngài chủ tịch KECO còn có Jung Gun-Young - Trưởng văn phòng đại diện của KECO tại Việt Nam và các đồng nghiệp.
 
Về phía Bộ TN&MT có Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường Nguyễn Thế Đồng, ông Lê Đình Ái - Tổng giám đốc, chủ tịch hội đồng thành viên Tổng công ty TN&MT Việt Nam, ông Hoàng Văn Thức – Chánh Văn phòng Tổng cục Môi trường, ông Nguyễn Minh Cường – Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế và Khoa học công nghệ, ông Đỗ Nam Thắng – Phó Viện trưởng Viện Khoa học Quản lý Môi trường.
 
Phát biểu, trao đổi tại buổi gặp mặt, Thứ trưởng Bùi Cách Tuyến hoan nghênh và nhiệt liệt chào mừng ngài  Park Seung Hwua - Chủ tịch KECO và các đồng nghiệp. Thứ trưởng khẳng định mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa Việt Nam – Hàn Quốc trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong công tác bảo vệ môi trường. Thứ trưởng cũng mong muốn tại buổi gặp mặt thân mật này, lãnh đạo hai bên sẽ trao đổi, thảo luận và đạt được nhiều kết quả tốt đẹp.
 
Thứ trưởng cũng thông báo tới ngài Chủ tịch KECO về việc Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định số 2406/QĐ-TTg phê duyệt danh mục các Chương trình MTQG giai đoạn 2012 – 2015, trong đó có Chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường.
 
Chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường tập trung giải quyết 3 vấn đề lớn: (1) Xử lý ô nhiễm do hoạt động của các làng nghề; (2) Xử lý ô nhiễm môi trường đất do hóa chất BVTV tồn lưu; (3) Xử lý ô nhiễm môi trường các lưu vực sông.
 
Theo đó, Thứ trưởng cũng đề nghị Chính phủ Hàn Quốc sẽ hỗ trợ Việt Nam nguồn kinh phí xử lý ô nhiễm môi trường thông qua Hỗ trợ phát triển chính thức ODA.
 
Phát biểu tại buổi gặp mặt, ngài Park Seung Hwua - Chủ tịch KECO đánh giá rất cao nỗ lực của Chính phủ Việt Nam và Bộ TN&MT trong công tác bảo vệ môi trường. Ông bày tỏ niềm vui mừng khi Chính phủ Việt Nam đã sớm quan tâm tới vấn đề xử lý ô nhiễm môi trường đất. Ông cũng hứa sẽ hỗ trợ Việt Nam trong lĩnh vực này.
 
Ngài Park Seung Hwua khẳng định phía Hàn Quốc sẽ hỗ trợ hết sức về công nghệ xử lý môi trường và chuyên gia tư vấn cũng như hỗ trợ về kinh phí xử lý và cải thiện môi trường.
 
Tại buổi gặp mặt, lãnh đạo Bộ TN&MT và KECO đã trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, đưa ra những đề xuất hợp tác và phát triển mối quan hệ giữa hai bên trong thời gian tới, đặc biệt trong những lĩnh vực môi trường.
 
 
 

Khóa đào tạo phát triển năng lực xây dựng chính sách kiểm soát ô nhiễm nước

Ngày 21/9, tại Hòa Bình, Tổng cục Môi trường phối hợp với Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật bản (JICA) tổ chức khóa đào tạo thứ 2 nhằm phát triển năng lực xây dựng chính sách – Khung Chính sách Tổng thể về Kiểm soát ô nhiễm nước trong khuôn khổ Dự án “Tăng cường năng lực quản lý môi trường nước tại Việt Nam”.
Dự án “Tăng cường năng lực quản lý môi trường nước tại Việt Nam” là dự án được Chính phủ Nhật Bản hỗ trợ phát triển chính thức không hoàn lại thông qua Tổ chức Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) với mục tiêu chính nhằm nâng cao năng lực quản lý môi trường nước của Bộ Tài nguyên và Môi trường và các Sở Tài nguyên và Môi trường của TP. Hà Nội, Hải Phòng, Thừa Thiên Huế, TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu.
40 đại biểu bao gồm các chuyên gia Nhật Bản, đại diện của Bộ Tài nguyên và  Môi trường và của các Sở Tài nguyên và Môi trường tham gia thực hiện dự án đã tới tham gia khóa đào tạo.
Mục đích của khóa đào tạo nhằm tìm hiểu cách thức xây dựng khung chính sách tổng thể trong kiểm soát ô nhiễm nước; tìm hiểu kinh nghiệm “Nghiên cứu và Thực thi – Giới thiệu về Thanh tra (môi trường)” tại Nhật Bản; tìm hiểu các kỹ năng cơ bản về phân tích sự cố ô nhiễm nước bằng việc nghiên cứu các ví dụ cụ thể.
Thay mặt Tổng cục Môi trường, ông Nguyễn Minh Cường, Phó Giám đốc của Dự án, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ và Hợp tác quốc tế của Tổng cục Môi trường – đơn vị hiện đang triển khai dự án tại TP. Hà Nội đồng thời điều phối các hoạt động của toàn bộ dự án tại các địa phương, đã phát biểu khai mạc khóa đào tạo và chúc các đại biểu tham gia khóa đào tạo tiếp nhận tốt các kinh nghiệm về kiểm soát ô nhiễm nước của các chuyên gia Nhật Bản và sẽ có những ứng dụng hợp lý vào công tác kiểm soát ô nhiễm nước tại địa phương mình.
Mở đầu khóa đào tạo, ông Obayashi Shigenobu, Cố vấn trưởng của Dự án đã giới thiệu về tầm quan trọng, cấu trúc của Luật Kiểm soát ô nhiễm nước, phân loại các Luật liên quan đến kiểm soát ô nhiễm nước, cách thức xây dựng khung chính sách tổng thể trong kiểm soát ô nhiễm nước tại Nhật Bản, kết quả của việc áp dụng Luật quản lý môi trường nước tại Nhật Bản, …
Tiếp theo, ông Yamamoto Mitsuhiro, đại diện Trung tâm Hợp tác Môi trường Hải ngoại Nhật Bản (OECC) đã trình bày về kinh nghiệm của Nhật Bản trong quá trình nghiên cứu và thực thi các quy định pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nước.
Buổi chiều cùng ngày, ông Trần Phong, Giám đốc Trung tâm Đào tạo và Truyền thông Môi trường, Tổng cục Môi trường đã hướng dẫn các đại biểu nghiên cứu tình huống cụ thể hiện nay nhằm tìm hiểu các kỹ năng cơ bản về phân tích sự cố ô nhiễm nước tại Việt Nam.
Các đại biểu đã chia thành 2 nhóm tham gia thảo luận sôi nổi về ngăn ngừa ống xả thải “bí mật”, nguồn ô nhiễm không xác định, địa phương nên hành động như thế nào để làm rõ nguyên nhân ô nhiễm, cách người dân tham gia công tác phòng chống ô nhiễm nước, … và đề xuất các giải pháp, chính sách cần được bổ sung, điều chỉnh./.
Ông Nguyễn Việt Thắng, Điều phối viên của Dự án phát biểu
Ông Shigenobu Obayashi, Cố vấn trưởng của Dự án trình bày bài giảng
Ông Yamamoto Mitsuhiro, đại diện OECC trình bày bài giảng

Ông Trần Phong, Giám đốc Trung tâm Đào tạo và Truyền thông Môi trường, Tổng cục Môi trường hướng dẫn thảo luận nhóm
 
Các đại biểu tham gia khóa đào tạo



1.  Tên công nghệ/ Thiết bị (CN/TB): Hệ thống xử lý nước thải bằng phương pháp lọc sinh học nhỏ giọt.
2.  Mô tả đặc tính CN/TB:
 
3.        Thuộc lĩnh vực:
Công nghệ hoá sinh – Hoá môi trường.
4.  Những thông tin khác:
4.1. Đăng ký sở hữu công nghiệp:
Nhãn hiệu hàng hoá 
Số đăng ký:
Ngày/tháng/năm đăng ký:
4.2. Đã được cấp bằng Sở hữu Công nghiệp:
- Số bằng, ngày cấp
4.3. Các giải thưởng đã nhận:
( Ghi chú:kèm theo bản scan ảnh tác giả,các văn bằng,chứng nhận đã được cấp)
4.4. Hiệu quả kinh tế:
- Xuấtđầu tư:
+ Quy mô từ 50 – 150 giường bệnh là 18 – 20 triệu VNĐ/ m3/ ngày đêm.
+ Quy mô từ 200 giường bệnh trở lên là 15 triệu VNĐ/m3/ngày đêm.
- Diện tích mặt bằng xây dựng nhỏ
Chi phí vận hành
+ Lọc sinh học nhỏ giọt thông khí tự nhiên không cần sử dụng máy thổi khí nên giảm được đáng kể chi phí xử lý so với công nghệ bùn hoạt tính, cụ thể:
+ Quy mô từ 50 – 150 giường bệnh chi phí vận hành là 1500 – 2000 VNĐ/ m3.
+ Quy mô từ 200 giường bệnh trở lên chi phí vận hành là 900 - 1200 VNĐ/m3.
Chi phí bảo dưỡng: 10 - 15 triệu VNĐ/ năm
Chi phí rẻ nhất (Cấp khí tự nhiên)
Phương pháp lọc sinh học nhỏ giọt tiết kiệm:
- 75% điện năng so với phương pháp bùn hoạt tính
- 72% điện năng so với phương pháp lọc sinh học ngập nước
5. Ứng dụng triển khai:
TT
Tên công trình
Năm
Ghi chú
1
Thiết kế, xây dựng hệ thống xử lý nước thải Bệnh viện Gang thép, Thái Nguyên
1999
Đã triển khai
2
 Thiết kế, xây dựng hệ thống xử lý nước thải Bệnh viện A Tuyên Quang
2000
Đã triển khai
3
Thiết kế, xây dựng hệ thống xử lý nước thải Bệnh viện Lao Tuyên Quang
2000
Đã triển khai
4
Thiết kế, xây dựng hệ thống xử lý nước thải Bệnh việnY học dân tộc Tuyên Quang
2000
Đã triển khai
5
 Thiết kế, xây dựng hệ thống xử lý nước thải Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Thái Nguyên
2008
Đã triển khai
6
Thiết kế, xây dựng hệ thống xử lý nước thải Bệnh việnC Thái Nguyên
2008
Đã triển khai
7
Xây dựng hệ thống xử lý nước thải Bệnh viện Phong – Da liễu TW Quỳnh lập, Nghệ An
2009
Đã triển khai
8
Thiết kế, xây dựng hệ thống xử lý nước thải Bệnh việnA Thái Nguyên
2009
Đã triển khai
9
Thiết kế, xây dựng hệ thống xử lý nước thải Cụm Bệnh viện Lao và các bệnh chuyên khoa, Bắc Ninh
2009
Đang triển khai
10
Thiết kế, xây dựng hệ thống xử lý nước thải Bệnh việnTâm thần kinh, Hưng Yên
2009
Đang triển khai
11
Thiết kế, xây dựng hệ thống xử lý nước thải Bệnh viện Đa khoa Quỳnh Phụ, Thái Bình
2010
Đang triển khai