Thứ Ba, 21 tháng 5, 2013


Nâng cao quản lý phát triển đô thị và chất lượng xây dựng

21/05/2013 09:35
Ngày 17/5, tại TP.HCM, Bộ Xây dựng đã tổ chức Hội nghị Triển khai Nghị định số 11/2013/NĐ-CP về quản lý đầu tư phát triển đô thị và Nghị định số 15/2013/NĐ-CP về quản lý chất lượng công trình xây dựng tại khu vực phía Nam. Đại diện lãnh đạo 35 tỉnh thành khu vực phía Nam, các Sở Xây dựng, TCty, DN… cùng tham dự. Đây là những Nghị định có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý phát triển đô thị và quản lý chất lượng công trình xây dựng.

Thứ trưởng Nguyễn Trần Nam phát biểu khai mạc hội nghị.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam cho biết: Trong những năm vừa qua, với chính sách đổi mới, cùng với sự phát triển nhanh về kinh tế - xã hội đất nước, hệ thống các đô thị Việt Nam đã phát triển nhanh chóng về cả số lượng, chất lượng và quy mô. Tại các địa phương đã hình thành nhiều không gian đô thị mới, đáp ứng những nhu cầu của người dân về một môi trường sống và làm việc hiện đại, đóng góp đáng kể vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Diện mạo đô thị có nhiều khởi sắc theo hướng văn minh, hiện đại, tạo dựng được những không gian đô thị mới, từng bước đáp ứng nhu cầu về môi trường sống và làm việc có chất lượng. Đô thị đã khẳng định vai trò là động lực phát triển kinh tế, là hạt nhân thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở mỗi địa phương, mỗi vùng và cả nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tốc độ đô thị hóa quá nhanh tại một số đô thị trung tâm cũng đồng thời tạo nhiều sức ép cho môi trường tự nhiên cũng như môi trường xã hội, hình thành những thách thức mới cho công tác quản lý phát triển đô thị. Thực trạng phát triển trong thời gian vừa qua đã cho thấy những thiếu sót lớn còn tồn tại trong công tác quản lý đầu tư phát triển đô thị. Tình trạng lãng phí đất đai trong các đô thị chưa được khắc phục, hiệu quả đầu tư xây dựng còn thấp, ảnh hưởng đến phát triển bền vững của các đô thị.
Nghị định 11 cũng lần đầu tiên quy định về trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc phải thực hiện công tác đầu tư phát triển đô thị theo quy hoạch và có kế hoạch. Đây chính là công cụ cốt lõi để kiểm soát quá trình phát triển đô thị, hạn chế các dự án thực hiện tràn lan không theo nhu cầu và khả năng của nền kinh tế như đã diễn ra trước đây. Chính quyền địa phương phải xây dựng kế hoạch và chịu trách nhiệm về việc thực hiện công tác đầu tư xây dựng theo kế hoạch do chính mình đề xuất. Chính quyền địa phương cũng có trách nhiệm trong việc thực hiện công tác kết nối, hỗ trợ chủ đầu tư (thông qua hoạt động của Ban quản lý khu vực phát triển đô thị), phối hợp trong công tác quản lý hành chính và an ninh trật tự tại các khu vực dự án.

Toàn cảnh hội nghị.
Thứ trưởng nhấn mạnh: “Nghị định 11/2013/NĐ-CP là một sự thay đổi lớn về tư duy quản lý trong lĩnh vực phát triển đô thị, trong đó có quy định về những công việc hoàn toàn mới. Vì vậy trong quá trình triển khai thực hiện tại các địa phương chắc chắn sẽ có nhiều bỡ ngỡ, Bộ Xây dựng hiện đang xây dựng một thông tư hướng dẫn chi tiết cho các nội dung của Nghị định và dự kiến ban hành Thông tư trong tháng tới. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp và hướng dẫn các địa phương cũng như các DN và người dân trong việc triển khai thực hiện Nghị định này, đảm bảo các quy định của Nghị định thực sự đi vào cuộc sống và mang lại những lợi ích thiết thực cho công tác phát triển đô thị của đất nước”.
Nghị định 15/2013/NĐ-CP về quản lý chất lượng công trình xây dựng có hiệu lực thi hành từ ngày 15/4/2013. Nghị định này được ban hành thay thế Nghị định 209/2004/NĐ-CP về quản lý chất lượng công trình xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý các hoạt động xây dựng, phù hợp với quan điểm và thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như của ngành Xây dựng. Nghị định 15 ra đời làm rõ hơn về phân loại nguồn vốn đầu tư để có cách thức quản lý khác nhau tránh lãng phí thất thoát.
Nói về quản lý chất lượng công trình xây dựng, Thứ trưởng Nam cho biết: “Trong 9 năm áp dụng Nghị định 209/2004/NĐ-CP cho thấy trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng xây dựng của các Bộ quản lý xây dựng chuyên ngành và UBND cấp tỉnh chưa rõ nét. Yêu cầu và cách thức quản lý các dự án, công trình xây dựng sử dụng các nguồn vốn khác nhau chưa rõ ràng. Theo số liệu thống kê, hiện nay vốn đầu tư xây dựng chiếm khoảng 70% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, vì vậy công tác quản lý chất lượng công trình, chống thất thoát, lãng phí, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đặc biệt là các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước. Với nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, cơ chế quản lý đầu tư xây dựng được điều chỉnh dần theo hướng chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” nhằm để thu hút các nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách Nhà nước, thu hút vốn đầu tư phát triển. Tuy nhiên, do quá coi trọng yếu tố thị trường, không phân biệt nguồn vốn Nhà nước và các nguồn vốn ngoài Nhà nước để có biện pháp quản lý phù hợp nên đã phân giao quá nhiều quyền hạn cho chủ đầu tư, làm mờ nhạt vai trò kiểm soát của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành. Chính điều này cùng với sự hạn chế về năng lực của các chủ đầu tư là một trong những nguyên nhân gây thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng, làm giảm chất lượng công trình, giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư”.
Việc ra đời Nghị định 11 và Nghị định 15 có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý phát triển đô thị và quản lý chất lượng công trình xây dựng. Qua đó nâng cao chất lượng công trình xây dựng từ các loại nguồn vốn cũng như giúp công tác quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch và kế hoạch bền vững.

Việt Nam sẵn sàng hợp tác về sử dụng nguồn nước

21/05/2013 09:51
Việt Nam cam kết sẵn sàng hợp tác với các nước để trao đổi, chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm trong quản lý, khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên nước, đặc biệt là những kinh nghiệm trong đối phó với thiên tai do lũ lụt và hạn hán gây ra.

Khai mạc phiên họp toàn thể Hội nghị Thượng đỉnh về nước lần thứ 2 khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Toàn văn bài phát biểu của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân tại Hội nghị Thượng đỉnh về nước
Ngày 20/5, tại Chiang Mai (Thái Lan), Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân thay mặt Chính phủ Việt Nam tham dự và phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 2 về Nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Hội nghị có sự tham dự của hơn 2.000 đại biểu của 50 quốc gia và vùng lãnh thổ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trong đó lãnh đạo cấp cao như Tổng thống, Thủ tướng, Phó Thủ tướng và quan chức cấp cao.
Mục tiêu của Hội nghị nhằm nâng cao nhận thức, tìm giải pháp cho các vấn đề của khu vực liên quan tới lãng phí nguồn nước, lũ lụt, hạn hán cũng như biến đổi khí hậu.
Các đại biểu tập trung thảo luận xoay quanh các chủ đề thời sự như: An ninh kinh tế, lương thực và nguồn nước; an ninh nguồn nước đô thị; an ninh môi trường nước; thách thức của thảm họa liên quan tới nước; an ninh nguồn nước hộ gia đình; rủi ro và khả năng phục hồi nguồn nước; và tiến trình thống nhất quản lý nguồn nước cho một thế giới an toàn về nước.
Thủ tướng Thái Lan Yingluck Shinawatra nhấn mạnh, Hội nghị này nhằm đề cao sự cần thiết phòng chống lũ lụt và quản lý nguồn nước trước những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu; cũng như cần phối hợp quốc tế để có những kế hoạch cụ thể giải quyết các vấn đề về nước trong tương lai.
Đồng thời, Hội nghị này còn cơ hội để các nhà lãnh đạo trong khu vực trao đổi quan điểm và tiếp cận việc quản lý khủng hoảng liên quan tới nước. Việc thống nhất nhận thức từ các quốc gia sẽ góp phần quan trọng tạo ra những cơ chế quản lý và ngăn chặn rủi ro đối với lũ lụt và hạn hán.
Tại Hội nghị này, Chính phủ Thái Lan cam kết đóng góp 1 triệu USD để thành lập quỹ trị giá 10 triệu USD nhằm hỗ trợ nghiên cứu về quản lý nguồn nước trong khu vực.

Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân phát biểu tại phiên toàn thể của Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 2 về Nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Phát biểu tại phiên toàn thể của Hội nghị, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân nêu rõ, vì lợi ích của tất cả các quốc gia, dân tộc, vì sự thịnh vượng và ổn định chung của cả khu vực, các quốc gia trong khu vực chung tay hành động vì một châu Á – Thái Bình Dương thịnh vượng, an toàn về nguồn nước.
Phó Thủ tướng đề xuất xem xét phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật sử dụng các nguồn nước quốc tế cho các mục đích phi giao thông thủy; nâng cao hiệu quả của các Hiệp định, Hiệp ước đã được ký kết; tăng cường hợp tác trong việc chia sẻ nguồn nước xuyên biên giới trên nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia.
Bên cạnh đó cần tăng cường hợp tác chia sẻ kinh nghiệm trong quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên nước, đồng thời phòng, chống có hiệu quả các tác hại do nước gây ra; đầu tư cho các công trình xử lý nước thải và khôi phục các nguồn tài nguyên nước bị suy thoái, cạn kiệt; chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, tập quán tốt về quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên nước; tăng cường sự tham gia và tham vấn các nước láng giềng trong các hoạt động phát triển lưu vực nhằm bảo đảm nguồn nước không chỉ cho chúng ta hôm nay mà còn cho các thế hệ mai sau.
Việt Nam có truyền thống hàng ngàn năm phòng chống thiên tai và phát triển nền văn minh lúa nước nhưng lại đang đứng trước những thách thức to lớn về an ninh nước do biến đổi khí hậu và yêu cầu phát triển. Việt Nam có tổng lượng nước khoảng 830 - 840 tỉ m3, nhưng có trên 60% được hình thành từ ngoài lãnh thổ và lại phân bố không đều theo mùa theo vùng và trong đó trên 60% tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long. Tình trạng ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt, xâm nhập mặn ngày càng gia tăng.
Bên cạnh đó, Việt Nam là 1 trong 10 quốc gia chịu nhiều thiên tai nhất, hàng năm phải hứng chịu từ 6-7 cơn bão; hàng chục trận lũ lụt, lũ quét, sạt lở đất... Trong 10 năm gần đây, mỗi năm thiên tai đã cướp đi sinh mạng của khoảng 400 người, thiệt hại kinh tế ước khoảng 1,2 % GDP.


Quy hoạch 39 nhà máy xử lý nước thải tập trung

21/05/2013 14:58
Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Quy hoạch thoát nước Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Phạm vi quy hoạch gồm toàn bộ hệ thống tiêu thoát nước thuộc địa giới hành chính của Hà Nội và một phần địa giới thuộc các tỉnh Hòa Bình, Hà Nam, Bắc Ninh, Hưng Yên có cùng lưu vực sông.

Các kỹ sư vận hành Trạm xử lý nước thải Kim Liên.
Theo Quy hoạch, thành phố Hà Nội có ba vùng tiêu thoát nước chính là vùng tả Ðáy, hữu Ðáy và bắc Hà Nội. Tại vùng tả Ðáy thoát nước bằng bơm cưỡng bức bao gồm địa bàn lưu vực sông Tô Lịch, sông Nhuệ, các huyện Phú Xuyên, Ðông Mỹ và các thị trấn, diện tích khoảng 47.350 ha. Tại vùng hữu Ðáy, thoát nước bằng hình thức tự chảy kết hợp với bơm cưỡng bức, bao gồm địa bàn thị xã Sơn Tây, Xuân Mai, Hòa Lạc, Quốc Oai, Phúc Thọ, Chúc Sơn và các thị trấn, diện tích khoảng 31.310 ha. Vùng bắc Hà Nội kết hợp một phần thoát nước tự chảy với bơm tiêu đô thị và thủy lợi, bao gồm địa bàn các quận Long Biên, Gia Lâm, Ðông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn, diện tích khoảng 46.740 ha.
Về quy hoạch thoát nước thải và xử lý nước thải, khu vực đô thị trung tâm phía nam sông Hồng chia thành năm lưu vực chính thu gom và xử lý nước thải. Tại khu vực này, phát triển hệ thống thoát nước hỗn hợp, trên cơ sở mạng lưới thoát nước chung đã có và xây dựng mới mạng lưới thu gom nước thải để đưa nước thải về nhà máy xử lý tập trung của từng lưu vực. Khu vực đô thị trung tâm phía nam sông Hồng chia thành 11 lưu vực. Khu vực đô thị phía bắc sông Hồng chia thành 13 lưu vực. Các đô thị vệ tinh được chia thành mười lưu vực thu gom và xử lý nước thải. Mạng lưới thu gom nước thải bao gồm các trạm bơm chuyển bậc, các tuyến cống bao và giếng tách nước thải, cống thu gom nước thải riêng đã được quy hoạch về hướng tuyến, quy mô và sẽ được tính toán cụ thể trong giai đoạn lập dự án đầu tư xây dựng, đáp ứng yêu cầu thu gom toàn bộ nước thải về các nhà máy xử lý nước thải.
Dự kiến sẽ xây dựng 39 nhà máy xử lý nước thải tập trung cho các đô thị với công suất đến năm 2030 là 1.808.300 m3/ngày, đến năm 2050 là 2.482.300 m3/ngày.

Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2013


Kỳ họp thứ 5 và 'nhãn lực tinh tường' của Quốc hội
499 đại biểu Quốc hội khóa 13, sáng 20/5, bước vào kỳ họp thứ 5, kéo dài một tháng tại Hà Nội. “Hơn lúc nào hết, Quốc hội rất cần nhãn lực tinh tường để nhận diện đúng tầm mức của các vấn đề nước sôi lửa bỏng hiện nay”, một vị đại biểu chuyên trách nói trước thềm kỳ họp.
Tràn ngập tâm tư từ các cuộc tiếp xúc cử tri, cũng có nghĩa là trách nhiệm của các vị đại diện cho dân càng nặng nề. Không chỉ ở
Tràn ngập tâm tư từ các cuộc tiếp xúc cử tri, cũng có nghĩa là trách nhiệm của các vị đại diện cho dân càng nặng nề. Không chỉ ở "nhãn lực tinh tường" để nhận diện rõ các vấn đề đang đặt ra cho cả trước mắt và lâu dài. Mà cao hơn còn là bản lĩnh để bàn, để quyết các giải pháp, phương cách giải quyết vấn đề..
Tâm tư này cũng được nhiều vị khác sẻ chia. Bởi, tại đây, không chỉ lần đầu tiên việc lấy phiếu tín nhiệm sẽ diễn ra mà Hiến pháp đang cần sự thay đổi có tính lịch sử, sửa Luật Đất đai vẫn ngổn ngang trăm mối… Nhìn rộng hơn thì từ kinh tế, xã hội, niềm tin... đều “đang có vấn đề” và sự kỳ vọng ở Quốc hội, đương nhiên vì thế mà cũng lớn hơn.
Mới đây, tại một diễn đàn về kinh tế vĩ mô với sự có mặt của gần 200 quan chức, nhà khoa học, chuyên gia và đại biểu Quốc hội, một chuyên gia kinh tế đã nêu nhận định: “Đất nước đang rơi vào tình trạng suy thoái toàn diện từ kinh tế, xã hội, văn hóa, đạo đức, giáo dục y tế đến niềm tin, kỷ luật, kỷ cương, pháp luật, đạo đức”.
Gần hơn, ở phiên họp thứ 18 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 14/5 vừa qua, Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan sau khi nêu sự cấp thiết phải cứu doanh nghiệp trong nước, đã nhấn mạnh rằng, “tôi thấy nguy cơ lắm”.
Bà Doan cũng tâm tư, khi ngân sách eo hẹp thì chi tiêu vẫn chưa triệt để tiết kiệm. Sự dàn trải, lãng phí của các chương trình mục tiêu quốc gia từng được phê phán mạnh mẽ ở nhiều diễn đàn và cả trên nghị trường, nhưng nay vẫn thế không thể khắc phục. Vì “ngay trong đại biểu Quốc hội cũng không dám quyết thì còn ai dám quyết”.
Trong khi đó, xem xét “túi tiền” của quốc gia với góc nhìn của người đã đứng đầu ngành tài chính nhiều năm liền, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cũng ngậm ngùi “tình hình xấu lắm”.
Mức độ lạc quan tại báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội đã giảm đi khá nhiều. Các chuyên gia cũng chẳng mất nhiều thời gian tranh luận xem tăng trưởng và lạm phát ở mức nào thì hợp lý nữa. Bởi CPI thấp chưa hẳn do kiềm chế mà do thiếu tiền. Nhưng tiền có bơm ra thì doanh nghiệp cũng khó hấp thụ vì gần 70% đã báo lỗ. Doanh nghiệp “chết” thì kinh tế khó mà hồi phục…, vòng luẩn quẩn này dù được vẽ đi vẽ lại thì giải pháp hữu hiệu vẫn còn là câu hỏi lớn.
Vậy nhưng, nếu chỉ cảm nhận tình hình qua các báo cáo “tự kiểm điểm” phục vụ cho việc lấy tín nhiệm tại kỳ họp này thì như nhận xét của nhiều vị đại biểu, rằng “dường như đất nước chẳng mấy khó khăn vất vả”. Bởi khó khăn, hạn chế, nếu có cũng khá nhẹ nhàng, còn thành tích vẫn là cơ bản.
Song, nói như đại biểu Lê Thanh Vân, Ủy viên Thường trực Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội thì sau gần hai năm, chẳng cần các báo cáo đó, cử tri cũng có thể đánh giá được kết quả công việc của bộ trưởng, huống chi đại biểu của dân có nhiều thông tin hơn để cân nhắc. Vấn đề còn lại là Quốc hội phải xem “y phục” hiện tại có vừa vặn với các vị được lấy phiếu hay quá rộng và cũng có thể là quá hẹp.
Tuy nhiên, “muốn cho Quốc hội nhận diện đúng thì cá nhân được lấy tín nhiệm phải thể hiện dấu ấn. Ví dụ ở cương vị thành viên Chính phủ thì anh phải thể hiện tư tưởng, đưa ra chính sách lớn để cải biến tình hình. Từ đó anh sắp xếp theo lớp lang cái gì trước cái gì sau, khâu nào là khâu cửa mở để giải quyết vấn đề. Chứ còn nhiều anh cứ nói tôi nghiêm cái này, chỉnh cái nọ mà chả cái biến được gì trong tình hình hiện nay, thì không thể đạt tín nhiệm cao”, ông Vân nói.
Đấy là chưa kể, bên cạnh một số vị rất có trách nhiệm với sản phẩm mang đậm dấu ấn cá nhân, thì vẫn có người hầu như chỉ kể lại công việc của cơ quan mình, ngành mình, chỉ thay ngày tháng và danh xưng, vẫn theo nhận xét của ông Vân.
Tiếp xúc với đại biểu Quốc hội, cử tri Bắc - Trung - Nam đều bày tỏ quan tâm và cả lo ngại tới sự khách quan của những lá phiếu tín nhiệm. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cũng nhấn mạnh rằng, không thể xem đây là kỹ thuật mà là vấn đề mang ý nghĩa chính trị. Bởi vậy, hướng dẫn phải chặt chẽ, và tạo điều kiện cho đại biểu đánh giá không ngược ý dân.
Đại biểu của dân đương nhiên phải thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước trong Quốc hội. Nhưng dân không chỉ quan tâm đến kết quả bỏ phiếu tín nhiệm. 26 triệu lượt ý kiến góp ý vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã cho thấy sự quan tâm đặc biệt của nhân dân với công việc mà ở kỳ họp này Quốc hội sẽ dành liên tục hai ngày để bàn thảo.
Mặc dù vậy, thông tin về ý dân với sửa đổi Hiến pháp thế nào hiện còn nhỏ giọt. Sau gần 5 tháng tổ chức lấy ý kiến nhân dân, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 chưa có cuộc họp báo nào để công bố kết quả lấy ý kiến. Báo cáo hơn 100 trang của Chính phủ về kết quả lấy ý kiến nhân dân cũng chưa được công bố công khai vì "chưa có quy định". Còn thông tin do người phát ngôn của Quốc hội nêu về phương án tên nước tại dự thảo sửa đổi Hiến pháp dường như cũng chưa hoàn toàn chắc chắn.
Cử tri còn tâm tư về nhiều vấn đề khác. Dù chương trình kỳ họp thứ 5 không có phiên nào Quốc hội nghe báo cáo hay bàn về tình hình biển Đông, song cử tri vẫn đang lo lắng, bất bình trước diễn biến phức tạp ở đây. Họ cũng vẫn không quên "nhắc” các vị đại diện cho mình chuyện công khai hình thức xử lý trách nhiệm cụ thể đối với người đứng đầu, cá nhân, tập thể để xảy ra sai phạm tại Vinashin, Vinalines… đã được hứa hẹn nhiều lần giữa nghị trường.
Tràn ngập tâm tư từ các cuộc tiếp xúc cử tri, cũng có nghĩa là trách nhiệm của các vị đại diện cho dân càng nặng nề. Không chỉ ở "nhãn lực tinh tường" để nhận diện rõ các vấn đề đang đặt ra cho cả trước mắt và lâu dài. Mà cao hơn còn là bản lĩnh để bàn, để quyết các giải pháp, phương cách giải quyết vấn đề.
“Chúng ta đã từng có những yếu kém lỏng lẻo trong quản lý, vậy thì phải xúm nhau vào thực hiện để tạo ra sự đồng thuận. Trong lúc này, không nặng về xử lý, tìm ra để làm cái gì, mà là để khắc phục tình hình”, lời của Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan chắc cũng hợp lòng nhiều cử tri và đại biểu.

XỬ LÝ NƯỚC SINH HOẠT:

Xử lý nước sinh hoạt cho gia đình là nhu cầu cấp thiết hiện nay do nguồn nước ngầm, nước sông thậm chí cả nước thủy cục không đảm bảo. Sử dụng nước sạch, không ô nhiễm các hóa chất, vi khuẩn gây bệnh là một cách bảo vệ sức khỏe của bạn và gia đình.
Công ty môi trường Ngọc Lân xin giới thiệu sơ lược quy trình xử lý nước sạch cho các bạn tham khảo

RO gia đình
Máy lọc nước tinh khiết cho gia đình, văn phòng

1.  SƠ ĐỒ CÔNG NGHỆ XỬ LÝ  NƯỚC SINH HOẠT

xử lý nước sinh hoạt

2.  THUYẾT MINH QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ

Công nghệ này phù hợp cho nhu cầu của hộ dân cư ở vùng nông thôn hoặc những nơi chưa có mạng lưới cấp nước.
Nước giếng khoan thường nhiễm phèn nặng, giặt quần áo thường bị vàng ố và có mùi hôi. Thiết bị có máy sục khí để tăng cường oxi là một cách để chuyển sắt ( phèn) từ sắt hòa tan thành sắt kết tủa. Nước qua giai đoạn này sẽ chuyển đến bể chứa.
Nước sông chứa các thành phần lơ lững nên cho qua thiết bị lọc thô dạng hở để loại phần lớn tạp chất.
Nước trong bể chứa xảy ra quá trình lắng các hạt sắt kết tủa xuống đáy và một phần nổi lên bề mặt. Những hạt sắt không đủ nặng vẫn còn hòa tan trong nước, nói chung ở giai đoạn này sắt đã bị xử lý một phần và mùi đã giảm rõ rệt.
Nước được đưa vào hệ thống lọc cát tinh để lọc thêm lần nữa nhằm làm tăng độ trong của nước. Ở giai đoạn này nước có thể dùng để tắm giặt, phục vụ nhu cầu sinh hoạt.
Một phần nước sẽ được chuyển sang bộ lọc nước tinh khiết mini phục vụ nhu cầu ăn uống trong gia đình.

3. ƯU, NHƯỢC ĐIỂM CÔNG NGHỆ


          a.      Ưu điểm:
            ·         Giá thành rẻ phù hợp với điều kiện đầu tư của đa số hộ gia đình.
            ·         Hệ thống ổn định dễ vận hành, độ bền thiết bị cao.
            ·         Chất lượng nước đạt tiêu chuẩn nước uống.
            ·         Thiết bị được chế tạo trong nước dễ tìm, rẽ.
           b.      Nhược điểm:
            ·         Hệ thống chỉ lọc được lưu lượng nhỏ.
Xử lý nước sinh hoạt

Hệ thống xử lý nước giếng công nghiệp

Xử lý nước sạch dùng cho sản xuất công nghiệp là điều cần thiết bởi giá thành rẻ, dễ khai thác và chủ động trong sản xuất. Nước ngầm trong lòng đất thường nhiễm phèn (sắt), vôi, manggan, pH thấp, độ đục cao, cá biệt có thể nhiễm asen hoặc nitrat, nitrit, colifom…
Hệ thống xử lý nước giếng công nghiệp
Nước giếng công nghiệp có tính chất ô nhiễm thường gặp nhất là nhiễm phèn, pH thấp, có độ đục cao. Khi bơm lên nước có độ trong nhất định, nước có mùi tanh bùn, để qua một 1-2 giờ sau nước chuyển thành màu vàng, có váng, độ đục cao. Nước nhiễm vôi, manggan thì nấu nước sôi để nguội sẽ thấy đóng cặn trắng dưới đáy nồi. Giếng nhiễm asen nitrat, nitrit, colifom, kim loại nặng thì phải xét nghiệm mẫu nước mới phát hiện ra được.
Nước giếng công nghiệp cần phải xử lý để tránh hư hỏng máy móc, đường ống, bảo vệ sức khoẻ cán bộ công nhân viên.

Công nghệ lọc nước giếng truyền thống:

xử lý nước giếng công nghiệp nhiễm phèn

Hầu hết các công nghệ truyền thống đều sử dụng sơ đồ xử lý như sau:
Nước giếng – Bơm lên bể chứa – Làm thoáng bằng giàn mưa – lắng – lọc thô
Với công nghệ này, việc xử lý đơn giản và rẻ tiền, dễ vận hành và khử được một vài chất ô nhiễm trong nước giếng. Song lại không thể xử lý triệt để sắt, manggan, asen, pH thấp, nitrat…

Xử lý nước thải:

     – Công nghệ oxi hoá sâu kết hợp màng siêu lọc cao phân tử Membrane bioreactor (MBR)
     – Công nghệ xử lý lọc sinh học bằng kỹ thuật Moving Bed Biofilm Reactor (MBBR)
     – Công nghệ AAO và MBBR
     – Công Nghệ AAO và MBR
     – Công nghệ Unitank
     – Công nghệ UASB ưa ấm
     – Công nghệ SBR và MBBR
     – Công nghệ khử màu nước thải bằng điện phân
     – Công nghệ khử màu nước thải bằng oxi hoá bậc cao.

Xử lý nước sạch:

xử lý nước giếng công nghiệp cao cấp
     – Công nghệ oxi hoá bậc cao:ANPOs (Advanced Non-Photochemical Oxidation Processes), 
     – oxi hóa bậc cao nhờ tác nhân ánh sáng: APOs (Advanced Photochemical Oxidation Processes)
     – Công nghệ lọc: lọc thô, lọc tinh, siêu lọc, thẩm thấu ngược
     – Công nghệ xử lý hoá lý


Ưu điểm của các công nghệ trên là dễ dàng vận vận hành, kích thước nhỏ gọn, tiết kiệm diện tích, giá thành rẻ, sử dụng công nghệ mới, hiện đại. 
xử lý nước giếng nhiễm phèn  
 Nếu quý công ty có nhu cầu cải tạo hoặc dự định xây dựng một Hệ thống xử lý nước giếng công nghiệp mới, hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn miễn phí.

Toshiba với công nghệ quản lý môi trường bền vững

Triển lãm chia thành 4 phần, phản ánh các khía cạnh của cách tiếp cận chiến lược đưa Toshiba trở thành một công ty sinh thái hàng đầu
Đầu tháng Hai vừa qua, tập đoàn Toshiba của Nhật Bản đã tổ chức triển lãm môi trường lần thứ 22 tại Tokyo, trưng bày khoảng 90 sản phẩm mới nhất của Toshiba nhằm nâng cao nhận thức cũng như đưa ra các sáng kiến môi trường.

Chủ đề của triển lãm càng trở nên nóng hổi hơn khi dư luận Nhật Bản cũng như nhiều nước đang tỏ ra quan ngại trước việc bầu không khí ô nhiễm từ Trung Quốc lan sang các nước láng giềng trong khu vực.

Chia sẻ về vấn đề này, giám đốc bộ phận Quản lý môi trường doanh nghiệp của Toshiba, ông Sanehira cho biết: "Toshiba có rất nhiều nhà máy hoạt động trên toàn thế giới và tất cả đều tuân thủ chặt chẽ theo tiêu chuẩn môi trường mà chúng tôi áp dụng ở Nhật Bản. Chúng tôi luôn thực hiện nghiêm ngặt các quy trình đánh giá mức độ ô nhiễm không khí và hướng tới việc sản xuất những sản phẩm sạch.”

Hiện Toshiba đang xúc tiến thực hiện "Tầm nhìn 2050," hướng về một tương lai mà mọi người có thể tận hưởng lối sống an toàn và hòa hợp với Trái đất. Để đạt được mục tiêu này, Toshiba đặt mục tiêu trở thành một trong những doanh nghiệp sinh thái hàng đầu thế giới, kết hợp giữa nhận thức về môi trường với tất cả các khía cạnh quản lý kinh doanh của mình, và tạo ra giá trị thông qua các sáng kiến hỗ trợ lối sống bền vững.

Triển lãm môi trường lần thứ 22 được chia thành 4 phần, mỗi phần phản ánh một khía cạnh của cách tiếp cận chiến lược đưa Toshiba trở thành một công ty sinh thái hàng đầu: Greening of Products tập trung vào các sản phẩm có ý thức về môi trường; Greening by Technology bao gồm công nghệ và năng lượng sạch; Greening of Process giới thiệu quy trình sản xuất thân thiện với môi trường; Green Management nhấn mạnh vào phương pháp quản lý môi trường của Toshiba.

Mục đích của Toshiba là đóng góp vào việc xây dựng một xã hội bền vững thông qua việc kết hợp giữa quản trị kinh doanh và quản lý môi trường, đẩy nhanh tốc độ mở rộng kinh doanh./.


Quy trình lọc khí thải từ nhà máy của Toshiba (Nguồn: PV/Vietnam+)


Quy trình quản lý năng lượng gia đình và công đồng của Toshiba (Nguồn: PV/Vietnam+)

Nhật xuất khẩu công nghệ môi trường sang Việt Nam

Nhật xuất khẩu công nghệ môi trường sang Việt Nam
Dự án thí điểm tại Việt Nam do đối tác chính là Tập đoàn NTT DATA thực hiện. Trị giá ngân sách chính phủ dành cho dự án này là 150 triệu yên.
Bộ Thông tin và Nội vụ Nhật Bản vừa thông báo sẽ xuất khẩu hạ tầng xã hội và công nghệ thông tin hiện đại của Nhật Bản ra nước ngoài thông qua hình thức hợp tác công-tư và điểm đến đầu tiên của dự án mang lại nhiều kỳ vọng này chính là Việt Nam.

Bước đi đầu tiên của chính sách mới này là vào tháng Ba tới, Nhật Bản sẽ bắt đầu triển khai dự án thí điểm tiến hành điều tra, đánh giá chất lượng nước và không khí tại Việt Nam.

Chính phủ Thủ tướng Shinzo Abe coi trọng chính sách “xuất khẩu hạ tầng xã hội hiện đại nhất của Nhật Bản ra nước ngoài” và hỗ trợ xuất khẩu hệ thống công nghệ thông tin của doanh nghiệp Nhật Bản, coi đây là trụ cột cho chiến lược tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản trong thời gian tới.

Dự án thí điểm tại Việt Nam do đối tác chính là Tập đoàn NTT DATA thực hiện. Trị giá ngân sách chính phủ dành cho dự án này là 150 triệu yên.

NTT DATA từng có thành công và đóng góp to lớn đối với việc phát triển hạ tầng xã hội và thông tin tại các khu đô thị hiện đại ở Nhật Bản.

Theo dự án thí điểm này, Nhật Bản sẽ thiết lập tại thủ đô Hà Nội các trung tâm phân tích dữ liệu môi trường như chất lượng nước, không khí cũng như cho lắp đặt các thiết bị cảm ứng tại nhiều nơi ở Việt Nam.

Với công nghệ phân tích dữ liệu một cách tổng hợp, NTT DATA sẽ tiến hành điều tra mực nước và chất lượng nước của sông Mekong và chất lượng không khí ở Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời xác định nguyên nhân và tìm ra biện pháp khắc phục.

Tại khu công nghiệp ở ngoại ô phía Bắc thành phố Hà Nội, NTT DATA sẽ tiến hành đo nhiệt độ, độ ẩm, lượng điện năng tiêu thụ để từ đó đề ra phương án sử dụng năng lượng một cách hiệu quả./.