Thứ Ba, 2 tháng 7, 2013

Vì một thành phố sạch, không ngập lụt

 Vì một thành phố sạch, không ngập lụt
Sau khi tái khởi động lại gói thầu A1 thuộc Dự án thoát nướcmưa, nước thải và quản lý chất thải rắn thành phố Hải Phòng, Tổng Công ty Xâydựng Bạch Đằng đang nỗ lực tập trung mọi nguồn lực để dự án cán đích đúng tiếnđộ. Đã từ lâu, sau mỗi trận mưa to, nhiều tuyến đường phố của Hải Phòng lạitràn ngập nước do hệ thống thoát nước đã xuống cấp. Nước thải và nước mưa hòaquyện vào nhau gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường và sức khỏe của ngườidân thành phố Cảng. Vì vậy, UBND thành phố quyết định đầu tư xây dựng Dự ánthoát nước mưa, nước thải và quản lý chất thải rắn từ nguồn vốn vay ODA của Cơquan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA). Để đảm bảo yêu cầu kỹ thuật chặt chẽ củadự án, Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng thi công tuân thủ đúng các quy trình,quy phạm, bản vẽ thiết kế và các yêu cầu kỹ thuật của hồ sơ mời thầu kết hợpkhảo sát thực tế hiện trường và đã được tư vấn giám sát xem xét chấp thuận. Nhàthầu chủ động sử dụng thiết bị robot ép cừ hiện đại dùng trong công nghệ épthủy tĩnh của Nhật Bản để giảm thiểu tối đa tác động lên các công trình lâncận. Được biết, trước khi tổ chức thi công, theo yêu cầu của Sở GTVT, Ban quảnlý dự án cải thiện vệ sinh môi trường Hải Phòng chỉ đạo tư vấn thiết kế và giámsát, nhà thầu thực hiện việc khảo sát hiện trạng toàn tuyến, phối hợp với cơquan quản lý như cấp nước, thoát nước, điện lực, viễn thông, công viên câyxanh, đường bộ, công trình đô thị… thống nhất tuyến cũng như các biện pháp cụthể để bảo vệ các công trình ngầm, công trình nổi trong phạm vi xây dựng, tổchức phân luồng để đảm bảo an toàn giao thông cũng như các biện pháp bảo vệ môitrường khác. Hiện nay gói thầu A1 thi công theo 4 tuyến. Tổng Công ty Xây dựngBạch Đằng đã tập trung mọi nguồn lực huy động các thiết bị máy móc hiện đại vàcùng với một đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật trình độ cao, dày dặn kinhnghiệm để đảm nhiệm tốt toàn bộ phần việc của gói thầu. Gói thầu A1 là một mắtxích quan trọng trong toàn bộ dự án thoát nước mưa, nước thải và quản lý chấtthải rắn TP.Hải Phòng để giải quyết cơ bản vấn đề vệ sinh môi trường khu vựctrung tâm thành phố thông qua việc xây dựng và phát triển hệ thống thu gom,thoát nước, xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn. Cải tạo và mở rộng hệ thống nướcmưa, nước thải và giải quyết ngập lụt tại 4 quận qua các công trình đầu mối thoátnước mưa bảo đảm đủ công suất thoát nước đối với các trận mưa lớn. Dự án giúpcải thiện được quy trình thu gom, vận chuyển sang quy trình khép kín, một côngđoạn, xử lý hợp vệ sinh toàn bộ lượng chất thải rắn phát sinh bảo đảm an toàngiao thông cũng như mỹ quan đô thị, giảm lao động thủ công. Dự án hoàn thành sẽtạo cho Hải Phòng có môi trường sống xanh, sạch, đẹp, thay đổi cảnh quan theohướng tích cực, đáp ứng yêu cầu phát triển thành phố đến năm 2025. Ban điềuhành dự án của Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng đã báo cáo lên lãnh đạo UBNDthành phố, với đại diện chủ đầu tư cũng như tư vấn thiết kế của Nhật, kết hợpvới đơn vị chủ quản tìm ra phương án bảo vệ, di dời và hoàn trả các công trìnhngầm hiện có; đề xuất phương án thi công hợp lý từng đoạn phù hợp với thực tếcũng như kết hợp với hướng dẫn của tư vấn giám sát nhằm giảm thiểu, hạn chếviệc nứt, lún nhà dân nên hiện nay việc lún nứt ảnh hưởng tới các công trìnhhiện có đã được cải thiện nhiều. Ông Trần Huy Hoàng - Giám đốc Ban điều hành dựán thuộc Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng cho biết, để đảm bảo tiến độ và chấtlượng tốt nhất cho thi công dự án, trong thời gian thi công gói thầu A1 vừaqua, Công ty huy động hệ thống máy móc hiện đại cùng đội ngũ kỹ sư công nhân cótrình độ kỹ thuật cao, dày dặn kinh nghiệm. Nhưng do khu vực Hải Phòng nền địa chất yếu, khu vực đường Lán Bè lạigiáp sông, độ sâu đặt ống sâu nên khi thi công không thể tránh khỏi những ảnhhưởng tới một số nhà dân khu vực dự án. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng này được chủđầu tư, nhà thầu thi công và tư vấn thiết kế tính đến. Ngay từ đầu chủ đầu tưđã ký hợp đồng với công ty bảo hiểm để lập biên bản giám định ban đầu làm cơ sởđể bồi thường cho những nhà dân bị ảnh hưởng bởi dự án. Hiện tại trên côngtrường, nhà thầu vẫn đang khẩn trương thi công dự án để kịp tiến độ và ngườidân khu vực dự án đã hiểu được tầ

Thứ Hai, 24 tháng 6, 2013

Nhiều DN “quên” xử lý nước thải
Ngày: 23/06/2013
Có đến 157 cơ sở vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường với số tiền đề nghị xử phạt lên tới 32,7 tỉ đồng.
Đây là thống kê của Bộ TN-MT, trong tổng số 429 cơ sở, KCN, CCN trên địa bàn các tỉnh, thành phố được thanh tra năm 2012.
 
Giám định mẫu nước thải chưa qua xử lý đưa ra môi trường
Hiện, cả nước đã có 283 KCN, KCX được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 80 nghìn ha trên phạm vi 58 tỉnh, thành phố, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt gần 52 nghìn ha, chiếm 65% tổng diện tích đất tự nhiên. Ngoài ra, còn có khoảng 878 CCN do địa phương thành lập. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác quy hoạch các KCN, CCN hiện tại không tuân theo quy hoạch thống nhất, một số nơi thiếu cơ sở khoa học do chưa được giải quyết đồng bộ giữa đầu tư cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi trường.
Quy hoạch thiếu đồng bộ
Theo đánh giá của Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường C49, các công trình này dù đã đi vào hoạt động nhưng hiệu quả không cao, dẫn đến tình trạng 75% nước thải khu công nghiệp thải ra ngoài với lượng ô nhiễm cao.
Riêng tại khu vực Đông Nam Bộ, lượng nước thải từ các KCN, chiếm đến 49% lượng nước thải của các KCN trong toàn quốc. Trong khi đó, theo số liệu thống kê của Bộ TN-MT, tỉ lệ các KCN có trạm xử lý nước thải tập trung chỉ chiếm 66%, nhiều KCN đã đi vào hoạt động mà hoàn toàn chưa triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải cục bộ hoặc có nhưng không vận hành, hay vận hành không hiệu quả hoặc xuống cấp.
Bên cạnh đó, nhiều KCN trên cả nước vừa thu hút đầu tư, vừa xây dựng cơ sở hạ tầng không tuân thủ thiết kế dự án đầu tư dẫn đến không xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung, cũng như việc đầu tư cho hệ thống thoát nước còn manh mún, chắp vá, không hiệu quả.
Kiểm tra ra vi phạm
Bên cạnh những đóng góp tích cực, quá trình phát triển công nghiệp nói chung và hệ thống các KCN nói riêng ở VN đang tạo ra nhiều thách thức lớn về ô nhiễm môi trường do chất thải rắn, nước thải và khí thải công nghiệp. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, VN có thể phải chịu tổn thất do ô nhiễm môi trường lên tới 5,5% GDP hàng năm. Mỗi năm VN cũng thiệt hại 780 triệu USD trong các lĩnh vực sức khỏe cộng đồng vì ô nhiễm môi trường.
Một trong những lý do khiến công tác bảo vệ môi trường tại nhiều khu công nghiệp chưa đạt hiệu quả như mong muốn là do chức năng giám sát, kiểm tra về môi trường của Ban quản lý các khu công nghiệp chưa được quy định cụ thể, rõ ràng. Bên cạnh đó, kinh phí cho việc xây dựng và duy trì hoạt động của hệ thống xử lý nước thải công nghiệp rất tốn kém, không phải chủ đầu tư khu công nghiệp nào cũng sẵn sàng triển khai, do đó, công tác bảo vệ môi trường thường bị bỏ ngỏ hoặc chỉ làm mang tính chất đối phó với cơ quan chức năng khi bị kiểm tra.
Năm 2012, Tổng cục Môi trường (Bộ TN-MT) đã tiến hành thanh tra, kiểm tra đối với 429 cơ sở, KCN, CCN; xử lý và đề nghị xử lý đối với 157 cơ sở vi phạm với số tiền xử phạt là 32,7 tỉ đồng. Tổng cục Môi trường cũng đã triển khai 5 đoàn thanh, kiểm tra về BVMT theo Quyết định 64 đối với 38 cơ sở gây ô gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trên phạm vi 11 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; lập 31 biên bản vi phạm hành chính đối với 31 cơ sở có hành vi vi phạm pháp luật về BVMT, chuyển hồ sơ cho Chánh Thanh tra Bộ ra quyết định xử phạt với số tiền 1.861 triệu đồng.
Trong khi đó, lực lượng “mũi nhọn” về xử phạt vi phạm môi trường tại các KCN là Cảnh sát môi trường, mặc dù được thành lập ở tất cả 63 tỉnh, thành phố nhưng mới chỉ có 22 Phòng Cảnh sát môi trường địa phương thực hiện công tác kiểm tra, xử phạt vi phạm tại các KCN (chiếm 36,6% so với 60 địa phương có KCN) với tổng số tiền hơn 2,5 tỉ đồng.
Theo các chuyên gia môi trường, để ngăn chặn tình trạng ô nhiễm môi trường tại các KCN, CCN, trước hết, Ban Quản lý KCN phải phối hợp với các cơ quan kiểm tra, giám sát ngay giai đoạn xây dựng hạ tầng các KCN, CCN. Trong đó, bắt buộc các chủ đầu tư phải thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường như đã cam kết trong báo cáo đánh giá tác động môi trường.

Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2013

6 vấn đề quan tâm trong sản xuất vật liệu xây dựng

21/06/2013 20:10

Vật liệu xây dựng được coi là cầu nối của ngành công nghiệp-xây dựng. Sản xuất vật liệu xây dựng hiện có một số vấn đề cần quan tâm.

Tốc độ tăng sản lượng một số loại VLXD chủ yếu năm 2012 so với năm 2005 (lần). Nguồn số liệu: TCTK
Vấn đề thứ nhất, vừa là kết quả tích cực, vừa là vấn đề hiện nay, là tốc độ tăng của vật liệu xây dựng (VLXD) nhìn chung cao hơn tốc độ tăng giá trị sản xuất của ngành Xây dựng.
Theo đó, chỉ trừ một vài loại VLXD tăng thấp do không còn phù hợp hoặc đã được thay thế bằng một loại vật liệu khác, còn đều tăng cao hơn tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành Xây dựng. Tốc độ tăng của sản xuất VLXD đã đáp ứng được nhu cầu xây dựng ở trong nước và có một phần được dùng để xuất khẩu. Chủng loại, mẫu mã VLXD đã đa dạng, phong phú hơn, đẹp hơn; chất lượng một số loại đã được nâng lên.
Tuy nhiên, cũng có lúc sản xuất đã vượt nhu cầu, khối lượng nhập khẩu một số loại VLXD cũng còn lớn, nhất là một số vật liệu cơ bản như sắt, thép, gạch lát, đồ nội thất và thị trường bất động sản đóng băng kéo dài, đã làm cho cung vượt cầu, nên lượng tiêu thụ VLXD bị giảm, làm cho lượng sản phẩm sản xuất một vài năm nay bị sụt giảm theo. Cụ thể: gạch nung năm 2011 giảm 1,6%; thép cán năm 2011 giảm 3,9%, năm 2012 giảm 5,5%; xi măng năm 2012 giảm 3,1%,…
Vấn đề thứ hai, hầu hết các doanh nghiệp không khai thác hết năng lực sản xuất, tỷ lệ sử dụng công suất thấp. Theo Tiến sĩ Trần Văn Huynh, Chủ tịch Hội VLXD Việt Nam, tỷ lệ sử dụng công suất của kính xây dựng chỉ đạt dưới 50%, vật liệu không nung dưới 55%, gốm sứ dưới 70%, xi măng dưới 80%... Trong khi một số cơ sở sản xuất VLXD chưa sử dụng hết công suất thì một số cơ sở mới ra đời chẳng những sản xuất gặp khó khăn, mà còn bị nặng nợ bởi vốn đầu tư xây dựng…
Vấn đề thứ ba liên quan đến quy mô và thiết bị công nghệ. Bên cạnh một số nhà máy có quy mô lớn, thiết bị công nghệ tiên tiến, thì phần lớn các nhà máy sản xuất VLXD khác có quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, tiêu hao nhiều nguyên liệu, tiêu tốn nhiều năng lượng, gây ô nhiễm môi trường, hiệu quả và sức cạnh tranh với hàng ngoại nhập thấp, trong khi lao động có giá rẻ hơn, không phải mất chi phí vận chuyển từ nước ngoài về…
Vấn đề thứ tư là bảo vệ môi trường chưa được đặc biệt quan tâm, không chỉ ở công nghệ tiêu hao nhiên liệu như trên, mà còn là việc chậm sử dụng VLXD không nung thay thế cho gạch xây bằng đất nung, ngói nung… (đến năm 2012 vẫn còn sản xuất tới trên 19 tỷ viên gạch đất nung; 5 tháng 2013 tuy có giảm 2,9% so với cùng kỳ nhưng vẫn lên tới gần 6,6 tỷ viên; ngói nung năm 2012 vẫn còn sản xuất trên 560 triệu viên). Việc khai thác cát (không chỉ dùng ở trong nước mà cả xuất khẩu), sỏi, đá cuội… mỗi năm lên đến trên dưới 60 triệu m3, nhưng do việc quản lý chưa tốt đã gây sạt lở ở không ít vùng.
Vấn đề thứ năm là vấn đề quy hoạch. VLXD là ngành sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên, năng lượng, quá trình khai thác, sản xuất… dễ gây tác động xấu đến môi trường, nên quy hoạch là vấn đề rất quan trọng. Quy hoạch chung của cả nước chưa đủ chi tiết, quy hoạch ở một số địa phương hoặc chưa có hoặc có nhưng còn chồng chéo với quy hoạch của cả nước; có quy hoạch rồi nhưng chưa phát triển theo quy hoạch.
Vấn đề thứ sáu, trong 5 tháng đầu năm 2013, sản xuất VLXD nói chung đã tăng lên với tốc độ cao hơn của toàn ngành (như xi măng tăng 7,4%, thép cán tăng 17,4%, thép thanh, thép góc tăng 7,4%...). Điều này có thể là do các nhà sản xuất VLXD tăng sản xuất để đón thời cơ khi ngành xây dựng, thị trường bất động sản có tín hiệu khả quan hơn. Đây cũng là điều mừng cho doanh nghiệp và lao động đang làm việc trong các lĩnh vực nói trên. Tuy nhiên, cần quan tâm đến việc tái cơ cấu ngành này từ quy hoạch, công nghệ, hiệu quả và sức cạnh tranh để không bị hàng nhập khẩu chiếm thị phần.

Thứ Ba, 11 tháng 6, 2013

Ra mắt Quỹ “Tiết kiệm 1 tỷ m3 nước” từ nay đến 2015


- Công ty Unilever Việt Nam và nhãn hàng Comfort với dòng sản phẩm tiết kiệm nước Comfort Một Lần Xả vừa chính thức khởi động một loạt hoạt động liên quan đến thiếu nước trên toàn cầu và ở Việt Nam.

Nhhằm giúp thay đổi nhận thức và hành vi về việc tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước, khuyến khích tiết kiệm nước sạch bằng việc giảm số lần xả trong mỗi lần giặt quần áo. Khởi đầu cho hoạt động này là sự ra đời của Quỹ “Tiết kiệm 1 tỷ m3 nước cho Việt Nam” do Unilever Việt Nam và nhãn hàng Comfort phối hợp với Cục Quản lý Tài nguyên Nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN – MT) thực hiện, nhân Lễ kỷ niệm “Ngày nước thế giới năm 2013” tại Cần Thơ. Đây là một trong những chuỗi hoạt động nằm trong khuôn khổ hợp tác dài hạn giữa Unilever Việt Nam và Bộ TN – MT trong 5 năm tới. Sự ra đời của Quỹ “Tiết kiệm 1 tỷ m3 nước sạch cho Việt Nam” thể hiện cam kết mạnh mẽ của Unilever trong việc thực hiện “Kế hoạch phát triển bền vững nhằm giảm thiểu tác động đối với môi trường, trong đó sẽ giảm một nửa lượng nước khi sử dụng các sản phẩm của Unilever trước năm 2020.
Ngoài ra, Công ty Unilever và nhãn hàng Comfort còn tổ chức hàng loạt hoạt động kêu gọi thanh niên Việt Nam tiết kiệm nước trong khuôn khổ chương trình gây Quỹ “Tiết kiệm1 tỷ m3 nước cho Việt Nam”, nhằm tạo cho sinh viên toàn quốc tham gia vào những hoạt động hữu ích cho cộng đồng. Những hoạt động cụ thể của Chương trình này bao gồm:
* Gặp gỡ sinh viên với chủ đề nước: Thông tin vai trò quan trọng của nước trong cuộc sống, sự cạn kiệt nguồn nước tự nhiên do cách sử dụng thiếu hợp lý trong thời gian qua, đề xuất một số giải pháp hữu ích nhằm thay đổi hành vi trong cộng đồng để tiết kiệm nước; thay đổi nhận thức và hành vi của người dân về việc tiết kiệm nước và bảo vệ nguồn nước sạch, khuyến khích tiết kiệm nước sạch bằng việc giảm số lần xả khi giặt quần áo. Trong đó, sinh viên đóng vai trò truyền tải thông tin đối với những cá nhân xung quanh.
 * Tổ chức cuộc thi làm phim ngắn “Tôi yêu nước sạch”: nhằm tạo thêm nhiều hoạt động cho thanh niên và phát huy khả năng sáng tạo và đam mê nghệ thuật của sinh viên toàn quốc. Cuộc thi được tổ chức từ ngày 10/6/2013 đến ngày 31/7/2013 nhằm tìm kiếm đoạn phim ngắn thể hiện thành công chủ đề “Một ngày không có nước sạch”, phản ánh được tình trạng thiếu nước đang ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân Việt Nam, gửi thông điệp tiết kiệm nước sạch đến nhiều người và góp phần thay đổi nhận thức và hành vi sử dụng nước trong cộng đồng.
* CT đóng góp gây Quỹ “Tiết kiệm1 tỷ m3 nước cho Việt Nam”: Ra mắt trang đóng góp trực tuyến (online) http://1tym3nuoc.vn, bằng cách đóng góp 1.000 đồng/người cho Quỹ “Tiết kiệm1 tỷ m3 nước cho Việt Nam”. Tổng số tiền sẽ được sử dụng vào CT hợp tác dài hạn của Unilever Việt Nam và Bộ TN - MT, nhằm thực hiện các dự án xây dựng và hỗ trợ nước sạch đến các vùng thiếu nước của Việt Nam.
Bà Nguyễn Thị Thu Hằng – Giám đốc ngành hàng nước xả vải, Công ty Unilever Việt Nam cho biết: Unilever cam kết sẽ tiếp tục cùng mở rộng CT nhằm đạt mục tiêu tiết kiệm 1 tỷ m3 nước sạch cho Việt Nam đến năm 2015.

Khai trương khu nghỉ dưỡng Cát Bà Beach Resort

Công ty cổ phần Đầu tư Hùng Vương vừa khai trương khu nghỉ dưỡng Cát Bà Beach Resort tại bãi biển Cát Cò – hòn ngọc của vịnh Bắc Bộ Việt Nam.
Nằm trọn vẹn trong quần thể đa dạng sinh học trên bãi biển đẹp nhất của Cát Bà, Cát Bà Beach Resort được thừa hưởng những vẻ đẹp tự nhiên với núi non, bờ biển, hang động đan xen các công trình nhân tạo và các dịch vụ nghỉ dưỡng chất lượng.
Cát Bà Beach Resort là khu nghỉ dưỡng 3 sao đẳng cấp, sang trọng, nội thất hiện đại trong các Bungalow gỗ xinh xắn Seafront, Seaview và nhà sàn truyền thống Seaview House lưng tựa núi, mặt hướng biển. Không gian xung quanh Resort là cảnh quan của cỏ cây, vạt hoa sắc màu và sự giao hòa núi biển độc đáo, nên thơ. Hệ thống dịch vụ vui chơi, giải trí tại Resort đáp ứng tối đa nhu cầu thư giãn của du khách với các môn thể thao dưới nước, bar bên bãi biển, nature spa & sauna duy nhất bên biển gắn kết con người với thiên nhiên.
Cát Bà Beach Resort được thiết kế không chỉ là khu nghỉ dưỡng lý tưởng, mà còn là nơi để du khách trải nghiệm ẩm thực các vùng miền và hơn cả là hương vị biển Cát Bà đặc trưng không thể bỏ qua. Tại nhà hàng Rock & Sea và tiệc tự nướng trên bãi biển, các món ăn được chế biến theo phong cách mới lạ độc đáo cùng phong cách phục vụ chuyên nghiệp sẽ đem đến cho du khách những trải nghiệm hoàn toàn khác biệt.
Trong những ngày dừng chân tại Cát Bà Beach Resort, du khách còn được tận hưởng chuyến đi tham quan đến nhiều nơi như khu du lịch Pháo đài Thần công ngắm vịnh Lan Hạ, các làng nghề truyền thống tại Cát Bà, vườn quốc gia Cát Bà.
Ông Phạm Vũ Hải Anh, Giám đốc trung tâm Du lịch Hùng Vương Cát Bà- đơn vị quản lý Cát Bà Beach Resort cho biết: “Thay vì một không khí nhộn nhịp từ những trò chơi hiện đại hay sự ồn ào chốn đông người, du khách lựa chọn loại hình du lịch nghỉ dưỡng mong muốn có được những phút giây thư giãn, tắm nắng và vui chơi cùng nhau bên bờ biển xinh đẹp, thoải mái với các dịch vụ spa hay thưởng thức các món ăn mang hương vị biển là đã có cảm giác tuyệt vời khó quên. Nắm bắt tâm lý này của du khách, Cát Bà Beach Resort đặt những dịch vụ hoàn hảo và phong cách phục vụ chuyên nghiệp, chu đáo lên hàng đầu để du khách hưởng thụ kỳ nghỉ tuyệt vời nhất”.
Nhân dịp khai trương, Cát Bà Beach Resort dành tặng nhiều dịch vụ miễn phí cho khách lưu trú tại Resort bao gồm dịch vụ ăn sáng, cocktail bãi biển, dịch vụ spa; các môn thể thao bãi biển như thuyền kayak, lướt ván buồm, dịch vụ tham quan khu du lịch Pháo đài Thần công.
Thêm vào đó, mỗi Bungalow sẽ được tặng vé giảm giá 10% các dịch vụ tại câu lạc bộ thể thao bãi biển như: cano thăm vịnh Lan Hạ, Áng thảm, dịch vụ sử dụng phao chuối.
Dưới đây là một số hình ảnh về Cát Bà Beach Resort:
Ngắm bình minh, uống cafe trên Pháo đài Thần công


Chơi các môn thể thao dưới nước tại Cát Bà Beach Resort


Nhà hàng Rock and Sea

Cát Bà Beach Resort ở bãi Cát Cò

Nature Spa & Resort

Quán bar trên bãi biển trong khu Cát Bà Beach Resort

Công bố kết quả lấy phiếu tín nhiệm 47 chức danh

  Sáng nay, 11/6, Quốc hội đã công bố kết quả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn.
Trong số 47 chức danh, người đạt nhiều phiếu tín nhiệm nhất (tín nhiệm cao và tín nhiệm) là bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Phó chủ tịch Quốc hội, với 476 phiếu.
Trong số các thành viên Chính phủ, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đạt kết quả cao nhất, với 455 phiếu tín nhiệm cao và tín nhiệm.
Ông Nguyễn Minh Quang, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường có số phiếu thấp nhất, với 377 phiếu tín nhiệm cao và tín nhiệm. Tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn đạt hơn 78% so với tổng số 481 phiếu bỏ cho ông Nguyễn Minh Quang.
Ông Bùi Quang Vinh, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư có 436 phiếu tín nhiệm cao và tín nhiệm.
Sau khi kết quả kiểm phiếu được công bố, Quốc hội cũng thông qua nghị quyết xác nhận kết quả này.
Kết quả lấy phiếu tín nhiệm 47 chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn
(lần lượt: tín nhiệm cao - tín nhiệm - tín nhiệm thấp)
1. Ông Trương Tấn Sang - Chủ tịch nước: 330 – 133 - 28
2. Bà Nguyễn Thị Doan - Phó Chủ tịch nước: 263 – 215 - 13
3. Ông Nguyễn Sinh Hùng - Chủ tịch Quốc hội: 328 – 139 - 25
4. Ông Uông Chu Lưu - Phó Chủ tịch Quốc hội: 323 – 155 - 13
5. Bà Nguyễn Thị Kim Ngân - Phó Chủ tịch Quốc hội: 372 – 104 - 14
6. Bà Tòng Thị Phóng - Phó Chủ tịch Quốc hội: 322 – 145 - 24
7. Ông Huỳnh Ngọc Sơn - Phó Chủ tịch Quốc hội: 252 – 217 - 22
8. Ông Phan Xuân Dũng - Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường: 234 – 235 - 22
9. Ông Nguyễn Văn Giàu - Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế: 273 – 204 - 15
10. Ông Trần Văn Hằng - Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại: 253 – 229 - 9
11. Ông Phùng Quốc Hiển - Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách: 291 – 189 - 11
12. Ông Nguyễn Văn Hiện - Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp: 210 – 253 - 28
13. Ông Nguyễn Kim Khoa - Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng - An ninh: 267 – 215 - 9
14. Ông Phan Trung Lý - Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật: 294 – 180 - 18
15. Bà Trương Thị Mai - Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội: 335 – 151 - 6
16. Bà Nguyễn Thị Nương - Trưởng Ban công tác Đại biểu: 292 – 183 - 17
17. Ông Nguyễn Hạnh Phúc - Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội: 286 – 194 - 12
18. Ông Ksor Phước - Chủ tịch Hội đồng Dân tộc: 260 – 204 - 28
19. Ông Đào Trọng Thi - Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng: 241 – 232 - 19
20. Ông Nguyễn Tấn Dũng - Thủ tướng Chính phủ: 210 - 122 - 160
21. Ông Hoàng Trung Hải - Phó Thủ tướng Chính phủ: 186 – 261 - 44
22. Ông Nguyễn Thiện Nhân - Phó Thủ tướng Chính phủ: 196 – 230 - 65
23. Ông Vũ Văn Ninh - Phó Thủ tướng Chính phủ: 167 – 264 - 59
24. Ông Nguyễn Xuân Phúc - Phó Thủ tướng Chính phủ: 248 – 207 - 35
25. Ông Hoàng Tuấn Anh - Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: 90 - 286 - 116
26. Ông Nguyễn Thái Bình - Bộ trưởng Bộ Nội vụ: 125 – 274 - 92
27. Ông Nguyễn Văn Bình - Thống đốc Ngân hàng Nhà nước: 88 – 194 - 209
28. Bà Phạm Thị Hải Chuyền - Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội: 105 – 276 - 111
29. Ông Hà Hùng Cường - Bộ trưởng Bộ Tư pháp: 176 – 280 - 36
30. Ông Trịnh Đình Dũng - Bộ trưởng Bộ Xây dựng: 131 – 261 - 100
31. Ông Vũ Đức Đam - Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ: 215 – 245 - 29
32. Ông Vũ Huy Hoàng - Bộ trưởng Bộ Công thương: 112 – 251 - 128
33. Ông Phạm Vũ Luận - Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo: 86 – 229 - 177
34. Ông Phạm Bình Minh - Bộ trưởng Bộ Ngoại giao: 238 – 233 - 21
35. Ông Cao Đức Phát - Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: 184 – 249 - 58
36. Ông Giàng Seo Phử - Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc: 158 – 270 - 63
37. Ông Trần Đại Quang - Bộ trưởng Bộ Công an: 273 – 183 - 24
38. Ông Nguyễn Minh Quang - Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường: 83 – 294 - 104
39. Ông Nguyễn Quân - Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ: 133 - 304 - 43
40. Ông Nguyễn Bắc Son - Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông: 121 - 281 - 77
41. Ông Phùng Quang Thanh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng: 323 – 144 - 13
42. Ông Đinh La Thăng - Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải: 186 – 198 - 99
43. Bà Nguyễn Thị Kim Tiến - Bộ trưởng Bộ Y tế: 108 – 228 - 146
44. Ông Huỳnh Phong Tranh - Tổng Thanh tra Chính phủ: 164 – 241 - 87
45. Ông Bùi Quang Vinh - Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư: 231 – 205 - 46
46. Ông Trương Hòa Bình - Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao: 195 – 260 - 34
47. Ông Nguyễn Hòa Bình - Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao: 198 – 269 - 23

2 tỷ USD xây khu đô thị, công nghiệp ở Quảng Ninh

(baodautu.vn) Tập đoàn Amata (Thái Lan) và Tập đoàn Tuần Châu dự kiến liên danh xây dựng Tổ hợp Khu đô thị công nghiệp, công nghệ cao tại tỉnh Quảng Ninh, vốn đầu tư 1,5 - 2 tỷ USD.
Liên danh Tập đoàn Amata - Tập đoàn Tuần Châu vừa đề xuất với UBND tỉnh Quảng Ninh ý tưởng xây dựng Tổ hợp Khu đô thị công nghiệp, công nghệ cao tại tỉnh Quảng Ninh.
Ông Phạm Minh Chính, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh cam kết
tạo điều kiện thuận lợi cho Liên danh xây dựng Dự án
Theo đó, mô hình Khu đô thị tương lai có các chức năng là khu công nghệ cao và sạch, khu tự do mậu dịch, các cơ sở nghiên cứu và phát triển các sản phẩm có giá trị gia tăng, các cơ sở giáo dục, khu đô thị...
Vị trí dự kiến đầu tư ở phía Nam Quốc lộ 18A, đi qua địa bàn Quảng Yên, Uông Bí, Hạ Long, với tổng diện tích nghiên cứu khoảng 16.000 ha.
Theo kế hoạch, giai đoạn I Dự án được triển khai trước với diện tích 500 ha ở phía Nam núi Na thuộc thị xã Quảng Yên, với mức đầu tư dự kiến 1,5 - 2 tỷ USD.
Làm việc với hai nhà đầu tư này, ông Nguyễn Văn Đọc, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh đã cơ bản chấp thuận chủ trương nghiên cứu đầu tư tại vị trí Liên danh đề xuất; đồng thời, cũng cơ bản chấp thuận cho nghiên cứu đầu tư giai đoạn I của Dự án.
Cả ông Phạm Minh Chính, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh và ông Nguyễn Văn Đọc đều đánh giá cao ý tưởng nghiên cứu và quyết tâm đầu tư vào Quảng Ninh của Liên danh Tập đoàn Amata và Tập đoàn Tuần Châu.
"Tỉnh Quảng Ninh sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất để Tập đoàn Amata và Tập đoàn Tuần Châu triển khai thành công dự án", ông Chính phát biểu.
Trong khi đó, thay mặt Liên danh, bà Panichewa, Tổng giám đốc Điều hành Công ty Amata cam kết sẽ nhanh chóng hoàn thiện các thủ tục đầu tư để Dự án được khởi công trong thời gian sớm nhất.
Amata hiện được Quảng Ninh xác định là một trong những nhà đầu tư chiến lược của tỉnh.
Thiếu kiểm soát xả thải ra biển: Mối lo ô nhiễm

Mức độ ô nhiễm vùng ven biển, cửa sông của thành phố đang ngày càng gia tăng. Tình trạng này đe dọa trực tiếp đến môi trường biển. Tuy nhiên, việc kiểm soát xả thải ở khu vực này vẫn thiếu chặt chẽ.
Báo động về ô nhiễm
Cống Nam Đông là nơi tiếp nhận nước thải từ mương An Kim Hải đổ ra biển khu vực Đình Vũ. Nơi đây nước thường có màu đen quánh, đặc sệt, ngày nắng bốc mùi khó chịu. Tương tự, cống C1, cống dưới đê biển, cũng là nơi tiếp nhận nước thải của một số cơ sở sản xuất trên địa bàn quận Dương Kinh. Cách không xa bến cá đường vào đền bà Đế cũng có cống xả trực tiếp ra biển. Nước qua cống xả thường có màu đen.
Theo kết quả nghiên  cứu "Thực trạng môi trường nước vùng cửa sông ven biển Bắc Bộ" do Tiến sĩ Vũ Hoàng Hoa và Thạc sĩ Nguyễn Thị Hằng Nga – (Trường đại học Thủy lợi Hà Nội) thực hiện, khu vực nước biển ven bờ thuộc vùng biển Hải Phòng, đặc biệt là khu vực cửa sông có cảng, đang bị ô nhiễm. Sự ô nhiễm trước tiên phải kể đến là ô nhiễm dầu. Hàm lượng dầu trong nước ở vùng biển ven bờ tăng cao, nhất là ở khu vực cửa sông, gần khu vực cảng, bến đỗ tàu thuyền. Hệ số ô nhiễm dầu trong trầm tích tăng từ 0,7 (năm 2001) lên 2,4 (năm 2008). Ô nhiễm đục nước đứng thứ hai sau ô nhiễm dầu. Gần đây ảnh hưởng đục của nước ven bờ tăng lên rõ ở khu vực bãi tắm, ảnh hưởng xấu tới du lịch và làm chết san hô, giảm năng suất sơ cấp thực vật nổi do hạn chế quang hợp. Đây là hậu quả của nạn phá rừng đầu nguồn và xói lở ở ven biển. Chỉ tính riêng sông Cấm từ năm 1960 đến năm 1992, lưu lượng nước tăng bình quân hàng năm từ 1 km3/năm lên 12,9 km3/năm và hàm lượng phù sa tăng từ 20 g/m3 lên 340 g/m3. Độ ôxy hoà tan (DO) của vùng biển thấp, trung bình khoảng 3,3 đến 10,9 mg/l vào mùa khô và khoảng 0,1 đến 6,1 mg/l vào mùa lũ. Nhu cầu ôxy hoá sinh học (BOD) khá cao (13,6 đến 31 mg/l), chỉ số vi sinh (coliform) qua khảo sát đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Nguyên nhân của tình trạng này là do chất thải công nghiệp, đô thị, các khu dân cư và những hoạt động trên biển gây ra. Ô nhiễm dầu chủ yếu do tình trạng phát triển giao thông thuỷ, công nghiệp và do các phương tiện tàu thuyền đánh cá lạc hậu... và thiếu trang thiết bị, cũng như khả năng ứng cứu, xử lý khi có sự cố tràn dầu.
Lồng bè nuôi thủy sản trên vịnh Lan Hạ, thị trấn Cát Bà (huyện Cát Hải).
Lồng bè nuôi thủy sản trên vịnh Lan Hạ, thị trấn Cát Bà (huyện Cát Hải).
Quản lý lỏng lẻo
Từ năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị định 25/2009/NĐ-CP về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo. Theo đó, các chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh trên hải đảo, chủ phương tiện nổi trên biển có trách nhiệm báo cáo về chất thải và phương án xử lý chất thải với cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường. Nước thải từ các dàn khoan thăm dò và khai thác dầu khí, phương tiện nổi, nước dằn tàu của các tổ chức, cá nhân hoạt động tại các vùng biển của Việt Nam chỉ được phép xả ra biển sau khi đã xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật về môi trường...
Quy định đã có, song việc kiểm soát xả thải vẫn chưa được thực hiện. Tại khu vực ở cửa hàng ăn uống tại bãi biển khu 295, khu 2 Đồ Sơn,... du khách dễ dàng bắt gặp hình ảnh những nhà hàng ở đây xả trực tiếp ra biển bằng những đường thoát nước thô sơ, nhiều khi lênh láng ra bãi cát chung quanh. Việc xả thải ra biển diễn ra một cách công khai mà không có sự xử lý, nhắc nhở nào. Không riêng ở Đồ Sơn, tại khu vực Cát Bà, quy hoạch khu vực chỉ cho phép khoảng hơn 250 bè cá,  nhưng tới nay số bè cá lên tới hơn 500 với hàng nghìn lồng nuôi cá. Mỗi bè lại có một kiểu cho cá ăn riêng. Các loại cá sống, cá chết được băm nhỏ dùng làm thức ăn, rồi tinh bột, rau tươi,… rất cả tống xuống hàng nghìn ô lồng. Cá ăn không hết, thức ăn hoặc lọt qua lưới xuống đáy biển, hoặc trôi khắp khu vực biển gần đó. Mặc dù chưa có được số liệu quan trắc cụ thể, nhưng chỉ bằng cảm quan cũng thấy ô nhiễm môi trường biển ở đây đang diễn biến hết sức phức tạp. Nhưng lạ một điều là chưa có cá nhân hay doanh nghiệp nuôi cá lồng bè nào bị xử lý về vấn đề này.
Tình trạng nhận thức về xả thải với nguy cơ ô nhiễm môi trường biển chưa đầy đủ và sự vào cuộc thiếu mạnh mẽ của các cơ quan chức năng đang góp phần làm gia tăng mức độ ô nhiễm biển.