Thứ Bảy, 17 tháng 8, 2013

Giải pháp tăng thị phần cho vật liệu không nung

Mục tiêu của Chương trình phát triển vật liệu xây dựng không nung đến năm 2020 đã được Chính phủ phê duyệt là thay thế 30-40% gạch đất sét nung với yêu cầu bắt buộc các công trình nhà từ 9 tầng trở lên phải sử dụng vật liệu xây dựng không nung.
Đây chính là động lực khuyến khích nhiều doanh nghiệp đầu tư chuyển đổi sản xuất loại vật liệu này. Tuy nhiên, để tăng thị phần tiêu thụ, việc thay đổi thói quen tiêu dùng chính là một mấu chốt quan trọng.
Ông Lê Văn Tới - Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) cho biết: Tại các nước phát triển, ngành công nghiệp này từ lâu đã chiếm trên 70% sản lượng vật liệu xây sản xuất hàng năm. Còn lại gần 30% vật liệu nung chủ yếu dùng cho mục đích trang trí và đó nhất định phải là những sản phẩm thực sự cao cấp. Trong khi đó, ở Việt Nam, vật liệu nung đang chiếm tới 90%, thị phần ít ỏi 10% còn lại dành cho vật liệu xây dựng không nung. Chênh lệch khoảng cánh này quá lớn và để xóa bỏ sự cách biệt này cần phải nỗ lực từ nhiều phía.
Một trong những nguyên nhân khiến vật liệu xây dựng không nung chịu “lép vế” là do tiêu chuẩn sản phẩm, quy phạm xây dựng, kết cấu kiến trúc và đơn giá xây dựng các loại vật liệu mới này chưa được ban hành đồng bộ, đầy đủ. Bởi vậy, các kiến trúc sư và cả đội ngũ tư vấn thiết kế xây dựng khó chỉ định thiết kế xây dựng loại gạch này cho công trình. Do đó, hầu hết các công trình sử dụng gạch không nung hiện nay đều do các nhà thiết kế nước ngoài tư vấn và chủ đầu tư nước ngoài yêu cầu.
Về phía người dân, việc sử dụng loại vật liệu này là những khái niệm hoàn toàn mới mẻ bởi trong tâm thức của họ chỉ biết đến loại gạch đỏ truyền thống. Trong khi công tác tuyên truyền chưa đạt hiệu quả như mong muốn thì vật liệu nung vẫn tiếp tục phát triển tràn lan. Mặc dù gạch nung xâm hại tới môi trường nhưng vì giá thành rẻ nên vẫn hấp dẫn người tiêu dùng. Không chỉ người dân mà nhiều doanh nghiệp xây dựng cũng thừa nhận về thói quen sử dụng vật liệu nung truyền thống, đồng thời chỉ ra sự chênh lệch về giá khiến người tiêu dùng không mấy “mặn mà” với dòng sản phẩm này.
Trước những băn khoăn về yếu tố giá liệu có phải là rào cản lớn trong cuộc đua song mã giữa vật liệu xây dựng không nung và gạch xây truyền thống, Tiến sỹ Trần Văn Huynh - Chủ tịch Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam chia sẻ: Vài năm trước, một số doanh nghiệp đã nhập gạch bêtông khí về bán và nhận thấy thị trường trong nước có nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, hiện nay, việc sử dụng vật liệu xây dựng không nung vẫn còn khá hạn chế là do lâu nay, dân ta vốn quen sử dụng gạch đất sét nung cỡ nhỏ, khi sử dụng gạch kích thước lớn với quy trình xây dựng yêu cầu chặt chẽ hơn khiến nhiều thợ e ngại vì đòi hỏi tay nghề phải thật chuẩn xác. Hiện giá thành vật liệu xây dựng không nung đắt hơn khoảng 50-60% so với vật liệu nung nên người dân và các chủ đầu tư khó chấp nhận.
Tuy nhiên, nếu tính toán kỹ lưỡng theo mét vuông tường xây thì có thể giá thành không chênh lệch là bao, do vữa xây, vữa trát ít hơn mà tốc độ xây nhanh hơn… vật liệu xây dựng không nung có độ bền vững cao, chất liệu nhẹ giúp giảm tải trọng của công trình, lại đẩy nhanh được tiến độ thi công và tiết kiệm vật liệu làm móng cũng như khung chịu lực.
Xét về hiệu quả kinh tế, khối lượng một viên gạch không nung nhẹ gấp từ sáu đến tám, thậm chí 10 lần viên gạch thủ công, nên việc xây dựng rất nhanh mà tải trọng công trình lại nhẹ, sẽ giúp giảm chi phí đáng kể. Mặt khác, vật liệu mới ra đời sẽ từng bước xoá bỏ cách sản xuất gạch thủ công đang thu hẹp hàng ngàn hécta đất mỗi năm và gây hư hại hoa màu. Phát triển vật liệu xây dựng không nung là vấn đề có tính chiến lược của cả ngành vật liệu góp phần phát triển công nghiệp bền vững, thân thiện với môi trường - Tiến sỹ Huynh khẳng định.
Hiện nay, thị trường trong nước có nhiều loại vật liệu xây dựng không nung như: gạch block bê tông (tận dụng đá mạt, đất đồi, cát, kết hợp với ximăng đúc thành viên); gạch bêtông khí, gạch bêtông bọt, đá chẻ… Lợi ích của công nghệ này đã rõ nhưng vẫn còn nhiều doanh nghiệp và cả địa phương chưa đánh giá đúng ý nghĩa của công nghệ mới, nên sản lượng vật liệu xây dựng không nung cung cấp cho thị trường còn khiêm tốn.
Toàn quốc hiện có 800 cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng không nung với tổng công suất đạt khoảng 1.600 triệu viên/năm; trong đó, chỉ có 31 dây chuyền công suất vừa và lớn, đạt sản lượng 552 triệu viên/năm; số còn lại là các dây chuyền nhỏ và quy mô hộ gia đình đầu tư.
Phát triển vật liệu xây dựng không nung đang là xu thế chung của thế giới. Đưa công nghệ này vào cuộc sống là hoàn toàn phù hợp với chủ trương công nghiệp hóa. Mục tiêu của chương trình này là giảm thiểu những tác hại về môi trường, tiết kiệm quỹ đất tự nhiên (kể cả đất sản xuất nông nghiệp), nhưng quan trọng hơn là công nghệ sản xuất gạch ngói không nung sẽ tận dụng được các chất phế thải đổ ra môi trường, như: xỉ than của nhà máy nhiệt điện, phế thải của ngành luyện kim, khai khoáng.
Chính vì thế, từ năm 2011, Chính phủ yêu cầu khi thi công các tòa nhà từ 8 tầng trở lên sử dụng vốn ngân sách (trừ một số công trình đặc biệt) phải sử dụng ít nhất là 50% vật liệu nhẹ trong tổng số vật liệu đưa vào công trình. Về lâu dài, các công trình sử dụng những nguồn vốn khác cũng phải sử dụng vật liệu nhẹ. Bên cạnh đó, để thu hút các doanh nghiệp tham gia phát triển vật liệu xây dựng không nung, hiện các dự án chế tạo thiết bị, sản xuất vật liệu xây dựng không nung, gạch ximăng... đều được hưởng chính sách ưu đãi về thuế thu nhập, thuế nhập khẩu và ưu đãi khác như đối với dự án thuộc chương trình cơ khí trọng điểm.
Cụ thể như: các tổ chức và cá nhân đầu tư sản xuất dòng sản phẩm này hoặc chế tạo thiết bị phục vụ sản xuất sẽ được miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước theo điều 14 Nghị định 142/2005/NĐ-CP của Chính phủ; được miễn, giảm tiền sử dụng đất theo Nghị định 44/2008/NĐ-CP; được hưởng ưu đãi thuế nhập khẩu thiết bị, thuế nhập khẩu nguyên liệu (có thời hạn)… kể cả ưu đãi vốn vay để đầu tư.
Bộ Xây dựng cho biết: Thời gian gần đây, các địa phương đã có nhiều động thái tích cực đẩy mạnh chương trình phát triển vật liệu xây dựng không nung Bộ Xây dựng đang tiếp tục cùng với ngành chức năng ban hành các giải pháp kỹ thuật hỗ trợ, hướng dẫn đào tạo nhân viên kỹ thuật để nhanh chóng đưa công nghệ mới này cuộc sống. Các loại vật liệu nhẹ, thân thiện với môi trường không chỉ đem lại nhiều lựa chọn phong phú cho người sử dụng mà còn góp phần hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.

Thứ Ba, 30 tháng 7, 2013

Chồng tuổi Hợi, vợ tuổi Sửu, nên sinh con năm nào?

Tôi sinh năm 1983 (Hợi), vợ tuổi Sửu (1985), đẻ một bé trai năm 2013. Xin hỏi chuyên gia tư vấn là vợ chồng tôi có hợp với tuổi con trai không?

Nếu vợ chồng tôi muốn đẻ 1 em bé nữa thì sinh vào năm nào để hợp tuổi? Nếu không hợp thì nhờ chuyên gia tư vấn hóa giải giúp tôi?
 (Nguyễn Đình Thông).
[Caption]
Ảnh: vnphongthuy.com.
Trả lời:
Chào bạn!
- Bố sinh năm 1983, cầm tinh: Hợi, ngũ hành: Thủy.
- Mẹ sinh năm 1985, cầm tinh: Sửu, ngũ hành: Kim.
- Con 1 sinh năm 2013, cầm tinh: Tỵ, ngũ hành: Thủy.
Trường hợp của bạn phân tích như sau:
T​heo nhận định của người xưa​:
- Căn cứ vào ngũ hành của bố mẹ thì con nên thuộc Kim hoặc Thổ. Trong gia đình bạn, bé trai vừa sinh (2013) thuộc hành Thủy, không sinh không khắc, là bình thường, tức không tốt không xấu.​ Vậy nên, con ​thứ hai nên sinh vào hành Kim hoặc Thổ để hợp với bố hoặc mẹ.
=> Tính từ năm hiện tại, mệnh Kim hoặc Thổ sẽ thuộc các năm 2014, 2015, 2020...
- Con sinh ra tam hợp/lục hợp/tam hội với cha/mẹ:
+ Tam hợp: Bố tuổi Hợi hợp với Mão, Mùi. Mẹ tuổi Sửu hợp với Tỵ, Dậu.
+ Lục hợp: Hợi hợp Dần, Sửu hợp Tý.
+ Tam hội: Hợi hợp Tý, Sửu; Sửu hợp với Hợi, Tý.
=> Cho nên con có thể cầm tinh: Mão, Mùi, Dần, Tý, Sửu, Tỵ, Dậu, Hợi.
Kết hợp 2 yêu cầu trên, theo nguyên tắc 1, nên sinh con vào năm 2014 (Ngọ), 2015 (Mùi), 2020 (Tý). Nguyên tắc 2: Mão, Mùi, Dần, Tý, Sửu, Tỵ, Dậu, Hợi.
Kết luận:
Năm tháng thích hợp nhất để sinh con:
- 2015 (Tháng 7, 8 âm lịch).
- 2020 (Tháng 3, 6, 9, 12 âm lịch).
Chúc gia đình bạn hạnh phúc.

Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2013

Khoảng cách ly tối thiểu và công nghệ xử lý nước thải sinh hoạt đối với Dự án đầu tư xây dựng nhà máy xử lý nước thải thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh
6/14/13 3:43 PM
Ngày 11/6, Bộ Xây dựng đã có công văn 11/BXD-HTKT gửi Sở Xây dựng tỉnh Bắc Ninh về khoảng cách ly tối thiểu và công nghệ xử lý nước thải sinh hoạt đối với Dự án đầu tư xây dựng nhà máy xử lý nước thải thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh như sau:
1. Vị trí Nhà máy xử lý nước thải thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh đã được xác định trong Quy hoạch chi tiết 1/500 Nhà máy xử lý nước thải thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh tại Quyết định số 213/QĐ-SXD ngày 03/8/2009 của Sở Xây dựng tỉnh Bắc Ninh.

2. Về quy định đối với khoảng cách ly tối thiểu từ trạm xử lý nước thải đến khu vực dân cư gần nhất:

Khoảng cách ly tối thiểu từ trạm xử lý nước thải đến khu vực dân cư gần nhất được quy định tại các quy chuẩn và tiêu chuẩn sau:

- QCVN 07:2010/BXD: Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị.

- QCVN 01:2008/BXD: Quy chuẩn xây dựng Việt Nam Quy hoạch xây dựng.

- TCVN 7957:2008: Thoát lưới – Mạng lưới và Công trình bên ngoài.

- TCVN 7222:2002: Yêu cầu chung về môi trường đối với các trạm xử lý nước thải sinh hoạt tập trung.

Theo quy định hiện hành, các Quy chuẩn là bắt buộc áp dụng, còn các tiêu chuẩn là khuyến khích áp dụng đối với từng trường hợp cụ thể.

Vì vậy, khoảng cách 150m từ nhà máy xử lý đến khu vực dân cư gần nhất mà Dự án đã lựa chọn là phù hợp với quy định hiện hành.

3. Về công nghệ xử lý nước thải đã được phê duyệt:

Công nghệ xử lý nước thải được lựa chọn cho nhà máy xử lý nước thải thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh là công nghệ xử lý sinh học hiếu khí bùn hoạt tính tuần hoàn (gọi tắt là C-tech). Đây là loại công nghệ đang được ứng dụng rộng rãi trong các công trình xử lý nước thải lớn của thế giới và Việt Nam như Nhà máy xử lý nước thải Yên Sở, Hồ Tây - Thành phố Hà Nội; Thành phố Bắc Ninh, VSIP Bắc Ninh - tỉnh Bắc Ninh; thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An, Thủ Dầu Một - tỉnh Bình Dương,…). Theo thiết kế của dự án, toàn bộ nhà máy được xây kín, khi sử dụng công nghệ này, nước thải sau xử lý đạt quy định tại cột A, QCVN 14:2008/BTNMT và được xả ra sông Ngũ Huyện Khê. Công nghệ này được đánh giá là công nghệ hiện đại, không ảnh hưởng, tác động đến đời sống cũng như sinh hoạt của người dân trong vùng dự án.

4. Dự án xây dựng nhà máy xử lý nước thải thị xã Từ Sơn là một công trình phúc lợi xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng. Nhà máy đi vào vận hành sẽ khắc phục tình trạng ô nhiễm nguồn nước mặt, cải thiện môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Khi đưa nhà máy vào sử dụng, chủ đầu tư cần giám sát chặt chẽ hoạt động của nhà máy tuân thủ đúng quy trình quản lý, vận hành.
 
Đề nghị phê chuẩn Hiệp định vay phát triển ngành nước Việt Nam
7/25/13 7:00 AM
Ảnh minh họa (nguồn internet)
Chính phủ đề nghị Chủ tịch nước phê chuẩn Hiệp định vay cho “Chương trình phát triển ngành nước Việt Nam - Khoản vay 2”, vay vốn Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB).
Được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền, ngày 23/5/2013 tại Hà Nội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ký với Đại diện ADB Hiệp định vay cho “Chương trình phát triển ngành nước Việt Nam - Khoản vay 2”.
Theo đó, ADB cam kết tài trợ cho Việt Nam một khoản tín dụng từ nguồn vốn vay thông thường (OCR) trị giá 212 triệu USD với thời hạn 25 năm (gồm 6 năm ân hạn), cơ chế lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất liên ngân hàng London LIBOR 6 tháng + % (biên độ này sẽ được ADB xác định theo từng thời điểm) và các khoản phụ phí (hoặc giảm trừ) tuỳ thuộc vào chi phí huy động vốn của ADB (được thông báo 6 tháng/lần vào tháng 1 và tháng 7 hằng năm), phí cam kết 0,15%/năm tính trên số vốn chưa giải ngân.
Khoản vay này tập trung tài trợ thực hiện các dự án đầu tư cho các công ty cấp nước; hỗ trợ thực hiện chuẩn bị dự án đầu tư cho các công ty cấp nước tại 12 tỉnh, thành phố bao gồm: Hải Phòng, Đà Nẵng, Thừa Thiên-Huế, Bắc Giang, Thái Nguyên, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Trị, Quảng Nam, Đắk Lắk, Lâm Đồng và Bình Dương.
Dự án được thực hiện từ năm 2013-2019. Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan điều phối, UBND các tỉnh, thành phố là cơ quan chủ quản, chủ đầu tư là các công ty cấp nước.
Khoản vay nhằm cung cấp bền vững nước sạch tại Việt Nam thông qua nâng cao hiệu quả của hệ thống nước. Các dự án trong Khoản vay 2 được hoàn thành sẽ mở rộng mạng lưới bao phủ, tăng công suất cấp nước, tăng cường tính bền vững thông qua việc thiết lập và đánh giá các chỉ số hoạt động, có lộ trình tăng giá nước phù hợp theo hướng nguồn thu sẽ bù đắp đủ chi phí và giảm dần trợ cấp.
Hội thảo: "Công nghệ mới trong ngành cấp thoát nước"
7/26/13 4:35 PM
Sáng nay 26/7/2013 tại Hà Nội, Hội Cấp thoát nước Việt Nam đã phối hợp với Mạng lưới các công ty nước Đông Nam Á (SEAWUN) tổ chức Hội thảo "Công nghệ mới trong ngành cấp thoát nước". Tham dự Hội thảo có Thứ trưởng Thường trực Bộ Xây dựng - ông Cao Lại Quang - Chủ tịch Hội Cấp thoát nước Việt Nam; ông Noupheak Virabouth - Chủ tịch SEAWUN; đại diện các cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cấp thoát nước; các chuyên gia trong nước và quốc tế.
Thứ trưởng Cao Lại Quang phát biểu khai mạc Hội thảo
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Thứ trưởng Cao Lại Quang cho biết, với nhiều thành tựu của công cuộc đổi mới, mạng lưới các đô thị của Việt Nam đang ngày càng được phát triển mở rộng và thực sự trở thành động lực chính thúc đẩy phát triển kinh tế. Song các đô thị Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những thách thức lớn trong lĩnh vực cấp thoát nước và vệ sinh môi trường. Mạng lưới được quan tâm đầu tư, cải tạo phát triển mở rộng, song cũng có thể nói rằng, hệ thống cấp thoát nước, xử lý nước thải của Việt Nam còn nhiều bất cập, chưa theo kịp tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa. Mạng lưới cấp nước, chất lượng dịch vụ cấp nước sạch còn thấp, tỷ lệ thất thoát thất thu còn cao, nước thải chưa được xử lý trước khi xả ra môi trường gây ô nhiễm nghiêm trọng, nguồn lực đầu tư, năng lực quản lý và nhận thức cộng đồng, việc lựa chọn áp dụng những công nghệ phù hợp vẫn là những thách thức lớn đối với ngành cấp thoát nước của Việt Nam. Hiện này, việc áp dụng các công nghệ tiên tiến, phù hợp với điều kiện Việt Nam trong lĩnh vực cấp thoát nước đang được các công ty cấp thoát nước thuộc các tỉnh, thành phố của Việt Nam hết sức quan tâm, và đây cũng là yêu cầu cấp thiết hướng tới phát triển ngành nước một cách bền vững. Thứ trưởng Cao Lại Quang bày tỏ hy vọng, Hội thảo này sẽ là dịp chia sẻ thông tin và kinh nghiệm trong việc áp dụng những công nghệ mới trong lĩnh vực cấp thoát nước của Việt Nam.
 
Toàn cảnh Hội thảo
Thứ trưởng Cao Lại Quang cũng cho biết, Mạng lưới các Công ty nước Đông Nam Á được thành lập năm 2002, văn phòng đặt tại Việt Nam, đã trải qua hơn 10 năm hoạt động. SEAUN đã có nhiều hoạt động hữu ích, hiệu quả, đặc biệt trong lĩnh vực đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chia sẻ thông tin, kinh nghiệm của các công ty nước trong khối Đông Nam Á. Bộ Xây dựng và Hội cấp thoát nước Việt Nam đánh giá cao những đóng góp của SEAWUN và mong muốn có sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa Hội Cấp thoát nước Việt Nam và SEAWUN để góp phần thúc đẩy lĩnh vực cấp thoát nước của Việt Nam ngày càng phát triển.

Tại Hội thảo, các đại biểu tham dự đã được nghe các tham luận rất bổ ích về những công nghệ mới áp dụng trong lĩnh vực cấp thoát nước, nổi bật là các báo cáo về Công nghệ cải tạo bể lọc một lớp thành bể lọc hai lớp vật liệu trong trạm xử lý nước do Công ty Cấp nước Hải Phòng phối hợp với Viện Khoa học kỹ thuật Môi trường - Đại học Xây dựng phối hợp nghiên cứu; Giải pháp tiền ô xi hóa tại nhà máy nước Tân Hiệp nhằm nâng cao chất lượng nước sạch sau xử lý của Công ty Cấp nước Sài Gòn; Giải pháp xử lý nước thải tập trung công nghệ Huber của Đức; Ý nghĩa của chất lượng vật tư ngành nước trong việc giảm thất thoát nước sạch; Hệ thống quản trị mạng lưới cấp nước...

Tại Hội thảo này, các đại biểu cũng chứng kiến Lễ bàn giao chức Giám đốc điều hành mới của SEAWUN cho ông Nguyễn Tường Văn - Phó Cục trưởng Cục Hạ tầng kỹ thuật Bộ Xây dựng./.
 

Thứ Năm, 11 tháng 7, 2013

Gạch không nung xi măng cốt liệu chống thấm: Chữa “bệnh nhiệt đới” cho công trình

  
Thấm nước là một trong những “căn bệnh kinh niên” của các công trình xây dựng, đặc biệt là các công trình dân dụng tại Việt Nam. Do nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ chênh lệch lớn và không khí có độ ẩm cao nên thường xuyên xảy ra hiện tượng co ngót, giãn nở, phá huỷ bề mặt, tạo điều kiện cho nước xâm nhập, thẩm thấu vào các hạng mục của công trình như tầng hầm, tường xây (đặc biệt là tường xây bao ngoài)… Việc bị thấm nước sẽ khiến các hạng mục này mắc phải “căn bệnh nhiệt đới” là ẩm mốc bên ngoài cũng như nứt kết cấu bên trong, từ đó gây mất mỹ quan và ảnh hưởng không nhỏ đến tính bền vững của công trình. Chính vì vậy, nhiệm vụ tăng cường khả năng chống thấm trong các công trình, thông qua giải pháp về kiến trúc và vật liệu là cần thiết và phải được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, do giá thành của những vật liệu chống thấm thường khá cao nên hiện nay đang xảy ra tình trạng: Chỉ khi hiện tượng thấm xảy ra rồi chủ công trình mới đi tìm nguyên nhân và giải pháp.
Nói về vấn đề này, ông Đỗ Khắc Thắng - Giám đốc Cty CP Kiến trúc Tây Hồ cho hay: “Tổng chi phí của công trình bao gồm chi phí xây và chi phí bảo hành, bảo trì. Nếu công trình được xử lý chống thấm ngay từ khi thi công, chi phí bảo hành sau này sẽ được giảm đi rất nhiều. Ngược lại, dù vật liệu không chống thấm ban đầu có lợi thế về giá thành rẻ nhưng tổn phí cho những công trình bị ngấm nước về sau sẽ đội lên rất nhiều lần”.
Theo một số chuyên gia xây dựng, không phải loại vật liệu chống thấm nào cũng có giá thành cao, đơn cử như gạch không nung xi măng cốt liệu chống thấm (XMCL).
Ông Đặng Việt Lê - Chủ tịch HĐQT Gạch Khang Minh chia sẻ: Điều thôi thúc Cty phát triển và sản xuất sản phẩm có khả năng chống thấm là do Khang Minh nhận thức được tốc độ hút nước, khả năng chống thấm nước của sản phẩm có liên quan trực tiếp đến tính bền vững của công trình xây dựng. Cốt liệu chính của gạch XMCL là đá và xi măng. Đây cũng là cốt liệu “bê tông” và hoàn toàn không ngấm nước sau khi đông kết. Tuy nhiên, công nghệ sản xuất gạch XMCL thông thường có thể để lại các lỗ rỗng thông nhau bên trong sản phẩm làm cho viên gạch hút nước nhanh. Điều này có thể gây ra hiện tượng thấm nước (hoặc thấm nước nhanh) của sản phẩm. Giải pháp chống thấm duy nhất là bịt kín các lỗ rỗng thông nhau đó bằng cách: Khi phối trộn vật liệu, gia tăng hàm lượng xi măng, bột đá hoặc tro bay... nhằm tăng tính liên kết cũng như tăng độ điền đầy các lỗ rỗng, điền đầy khe hở giữa các hạt vật liệu.
Bài toán đặt ra với Khang Minh và các đơn vị sản xuất gạch XMCL chống thấm khác là phải sử dụng cốt liệu hợp lý để giá thành sản phẩm tăng không nhiều và duy trì được tỷ lệ ngậm nước của sản phẩm phải đạt từ 6 - 9% trọng lượng. Đây là tỷ lệ ngậm nước giúp cho sản phẩm bám dính vữa xây bền chắc nhất.
Từ khi sản phẩm gạch XMCL có khả năng chống thấm cao xuất hiện trên thị trường, khách hàng rất có thiện cảm với gạch không nung XMCL và đã tin tưởng sử dụng ở nhiều công trình như Hei Tower, Sail Tower, Beriver, CT2A Xuân Đỉnh, Nhiệt điện Mông Dương I...
Hương Giang

Thứ Ba, 2 tháng 7, 2013

Vì một thành phố sạch, không ngập lụt

 Vì một thành phố sạch, không ngập lụt
Sau khi tái khởi động lại gói thầu A1 thuộc Dự án thoát nướcmưa, nước thải và quản lý chất thải rắn thành phố Hải Phòng, Tổng Công ty Xâydựng Bạch Đằng đang nỗ lực tập trung mọi nguồn lực để dự án cán đích đúng tiếnđộ. Đã từ lâu, sau mỗi trận mưa to, nhiều tuyến đường phố của Hải Phòng lạitràn ngập nước do hệ thống thoát nước đã xuống cấp. Nước thải và nước mưa hòaquyện vào nhau gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường và sức khỏe của ngườidân thành phố Cảng. Vì vậy, UBND thành phố quyết định đầu tư xây dựng Dự ánthoát nước mưa, nước thải và quản lý chất thải rắn từ nguồn vốn vay ODA của Cơquan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA). Để đảm bảo yêu cầu kỹ thuật chặt chẽ củadự án, Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng thi công tuân thủ đúng các quy trình,quy phạm, bản vẽ thiết kế và các yêu cầu kỹ thuật của hồ sơ mời thầu kết hợpkhảo sát thực tế hiện trường và đã được tư vấn giám sát xem xét chấp thuận. Nhàthầu chủ động sử dụng thiết bị robot ép cừ hiện đại dùng trong công nghệ épthủy tĩnh của Nhật Bản để giảm thiểu tối đa tác động lên các công trình lâncận. Được biết, trước khi tổ chức thi công, theo yêu cầu của Sở GTVT, Ban quảnlý dự án cải thiện vệ sinh môi trường Hải Phòng chỉ đạo tư vấn thiết kế và giámsát, nhà thầu thực hiện việc khảo sát hiện trạng toàn tuyến, phối hợp với cơquan quản lý như cấp nước, thoát nước, điện lực, viễn thông, công viên câyxanh, đường bộ, công trình đô thị… thống nhất tuyến cũng như các biện pháp cụthể để bảo vệ các công trình ngầm, công trình nổi trong phạm vi xây dựng, tổchức phân luồng để đảm bảo an toàn giao thông cũng như các biện pháp bảo vệ môitrường khác. Hiện nay gói thầu A1 thi công theo 4 tuyến. Tổng Công ty Xây dựngBạch Đằng đã tập trung mọi nguồn lực huy động các thiết bị máy móc hiện đại vàcùng với một đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật trình độ cao, dày dặn kinhnghiệm để đảm nhiệm tốt toàn bộ phần việc của gói thầu. Gói thầu A1 là một mắtxích quan trọng trong toàn bộ dự án thoát nước mưa, nước thải và quản lý chấtthải rắn TP.Hải Phòng để giải quyết cơ bản vấn đề vệ sinh môi trường khu vựctrung tâm thành phố thông qua việc xây dựng và phát triển hệ thống thu gom,thoát nước, xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn. Cải tạo và mở rộng hệ thống nướcmưa, nước thải và giải quyết ngập lụt tại 4 quận qua các công trình đầu mối thoátnước mưa bảo đảm đủ công suất thoát nước đối với các trận mưa lớn. Dự án giúpcải thiện được quy trình thu gom, vận chuyển sang quy trình khép kín, một côngđoạn, xử lý hợp vệ sinh toàn bộ lượng chất thải rắn phát sinh bảo đảm an toàngiao thông cũng như mỹ quan đô thị, giảm lao động thủ công. Dự án hoàn thành sẽtạo cho Hải Phòng có môi trường sống xanh, sạch, đẹp, thay đổi cảnh quan theohướng tích cực, đáp ứng yêu cầu phát triển thành phố đến năm 2025. Ban điềuhành dự án của Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng đã báo cáo lên lãnh đạo UBNDthành phố, với đại diện chủ đầu tư cũng như tư vấn thiết kế của Nhật, kết hợpvới đơn vị chủ quản tìm ra phương án bảo vệ, di dời và hoàn trả các công trìnhngầm hiện có; đề xuất phương án thi công hợp lý từng đoạn phù hợp với thực tếcũng như kết hợp với hướng dẫn của tư vấn giám sát nhằm giảm thiểu, hạn chếviệc nứt, lún nhà dân nên hiện nay việc lún nứt ảnh hưởng tới các công trìnhhiện có đã được cải thiện nhiều. Ông Trần Huy Hoàng - Giám đốc Ban điều hành dựán thuộc Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng cho biết, để đảm bảo tiến độ và chấtlượng tốt nhất cho thi công dự án, trong thời gian thi công gói thầu A1 vừaqua, Công ty huy động hệ thống máy móc hiện đại cùng đội ngũ kỹ sư công nhân cótrình độ kỹ thuật cao, dày dặn kinh nghiệm. Nhưng do khu vực Hải Phòng nền địa chất yếu, khu vực đường Lán Bè lạigiáp sông, độ sâu đặt ống sâu nên khi thi công không thể tránh khỏi những ảnhhưởng tới một số nhà dân khu vực dự án. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng này được chủđầu tư, nhà thầu thi công và tư vấn thiết kế tính đến. Ngay từ đầu chủ đầu tưđã ký hợp đồng với công ty bảo hiểm để lập biên bản giám định ban đầu làm cơ sởđể bồi thường cho những nhà dân bị ảnh hưởng bởi dự án. Hiện tại trên côngtrường, nhà thầu vẫn đang khẩn trương thi công dự án để kịp tiến độ và ngườidân khu vực dự án đã hiểu được tầ

Thứ Hai, 24 tháng 6, 2013

Nhiều DN “quên” xử lý nước thải
Ngày: 23/06/2013
Có đến 157 cơ sở vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường với số tiền đề nghị xử phạt lên tới 32,7 tỉ đồng.
Đây là thống kê của Bộ TN-MT, trong tổng số 429 cơ sở, KCN, CCN trên địa bàn các tỉnh, thành phố được thanh tra năm 2012.
 
Giám định mẫu nước thải chưa qua xử lý đưa ra môi trường
Hiện, cả nước đã có 283 KCN, KCX được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 80 nghìn ha trên phạm vi 58 tỉnh, thành phố, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt gần 52 nghìn ha, chiếm 65% tổng diện tích đất tự nhiên. Ngoài ra, còn có khoảng 878 CCN do địa phương thành lập. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác quy hoạch các KCN, CCN hiện tại không tuân theo quy hoạch thống nhất, một số nơi thiếu cơ sở khoa học do chưa được giải quyết đồng bộ giữa đầu tư cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi trường.
Quy hoạch thiếu đồng bộ
Theo đánh giá của Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường C49, các công trình này dù đã đi vào hoạt động nhưng hiệu quả không cao, dẫn đến tình trạng 75% nước thải khu công nghiệp thải ra ngoài với lượng ô nhiễm cao.
Riêng tại khu vực Đông Nam Bộ, lượng nước thải từ các KCN, chiếm đến 49% lượng nước thải của các KCN trong toàn quốc. Trong khi đó, theo số liệu thống kê của Bộ TN-MT, tỉ lệ các KCN có trạm xử lý nước thải tập trung chỉ chiếm 66%, nhiều KCN đã đi vào hoạt động mà hoàn toàn chưa triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải cục bộ hoặc có nhưng không vận hành, hay vận hành không hiệu quả hoặc xuống cấp.
Bên cạnh đó, nhiều KCN trên cả nước vừa thu hút đầu tư, vừa xây dựng cơ sở hạ tầng không tuân thủ thiết kế dự án đầu tư dẫn đến không xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung, cũng như việc đầu tư cho hệ thống thoát nước còn manh mún, chắp vá, không hiệu quả.
Kiểm tra ra vi phạm
Bên cạnh những đóng góp tích cực, quá trình phát triển công nghiệp nói chung và hệ thống các KCN nói riêng ở VN đang tạo ra nhiều thách thức lớn về ô nhiễm môi trường do chất thải rắn, nước thải và khí thải công nghiệp. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, VN có thể phải chịu tổn thất do ô nhiễm môi trường lên tới 5,5% GDP hàng năm. Mỗi năm VN cũng thiệt hại 780 triệu USD trong các lĩnh vực sức khỏe cộng đồng vì ô nhiễm môi trường.
Một trong những lý do khiến công tác bảo vệ môi trường tại nhiều khu công nghiệp chưa đạt hiệu quả như mong muốn là do chức năng giám sát, kiểm tra về môi trường của Ban quản lý các khu công nghiệp chưa được quy định cụ thể, rõ ràng. Bên cạnh đó, kinh phí cho việc xây dựng và duy trì hoạt động của hệ thống xử lý nước thải công nghiệp rất tốn kém, không phải chủ đầu tư khu công nghiệp nào cũng sẵn sàng triển khai, do đó, công tác bảo vệ môi trường thường bị bỏ ngỏ hoặc chỉ làm mang tính chất đối phó với cơ quan chức năng khi bị kiểm tra.
Năm 2012, Tổng cục Môi trường (Bộ TN-MT) đã tiến hành thanh tra, kiểm tra đối với 429 cơ sở, KCN, CCN; xử lý và đề nghị xử lý đối với 157 cơ sở vi phạm với số tiền xử phạt là 32,7 tỉ đồng. Tổng cục Môi trường cũng đã triển khai 5 đoàn thanh, kiểm tra về BVMT theo Quyết định 64 đối với 38 cơ sở gây ô gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trên phạm vi 11 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; lập 31 biên bản vi phạm hành chính đối với 31 cơ sở có hành vi vi phạm pháp luật về BVMT, chuyển hồ sơ cho Chánh Thanh tra Bộ ra quyết định xử phạt với số tiền 1.861 triệu đồng.
Trong khi đó, lực lượng “mũi nhọn” về xử phạt vi phạm môi trường tại các KCN là Cảnh sát môi trường, mặc dù được thành lập ở tất cả 63 tỉnh, thành phố nhưng mới chỉ có 22 Phòng Cảnh sát môi trường địa phương thực hiện công tác kiểm tra, xử phạt vi phạm tại các KCN (chiếm 36,6% so với 60 địa phương có KCN) với tổng số tiền hơn 2,5 tỉ đồng.
Theo các chuyên gia môi trường, để ngăn chặn tình trạng ô nhiễm môi trường tại các KCN, CCN, trước hết, Ban Quản lý KCN phải phối hợp với các cơ quan kiểm tra, giám sát ngay giai đoạn xây dựng hạ tầng các KCN, CCN. Trong đó, bắt buộc các chủ đầu tư phải thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường như đã cam kết trong báo cáo đánh giá tác động môi trường.