Thứ Sáu, 15 tháng 4, 2016

Dòng Đa Độ kêu cứu

Với nhiều người Hải Phòng, Đa Độ (xưa còn gọi là Cửu Biều Giang) là dòng sông trong xanh với khung cảnh thơ mộng đôi bờ. Bao năm qua, sông cung cấp nước sạch cho hàng vạn gia đình sinh sống chung quanh, người dân nội thành cũng như bảo đảm tưới tiêu cho rất nhiều cánh đồng trù phú. Cá, tôm dồi dào dưới sông là nguồn sống cho hàng trăm hộ làm nghề chài lưới. Tuy nhiên, hình ảnh đẹp đẽ ấy nay chỉ còn trong ký ức. Một lần được ngược dòng cùng cán bộ, nhân viên Trạm quản lý sông Đa Độ (Công ty CP Bảo đảm giao thông đường thủy Hải Phòng), mới thấy nhiều điều đáng suy nghĩ…

Kỳ 1:  Dòng sông ô nhiễm

Đầu giờ sáng một ngày cuối tuần, trong tiết trời mưa xuân lất phất, chúng tôi cùng nhóm cán bộ, nhân viên Trạm quản lý sông Đa Độ xuống ca-nô ngược dòng Đa Độ. Tiếng máy ca-nô rù rì, sau dần rít lên đưa chúng tôi từ thị trấn Núi Đối hướng về phía cống Cổ Tiểu để bắt đầu hành trình. Theo lời anh Nguyễn Mạnh Tú, Trạm trưởng Trạm quản lý sông Đa Độ, điểm cuối trước khi sông Đa Độ hòa vào dòng Văn Úc đổ ra biển thuộc địa phận xã Đoàn Xá (huyện Kiến Thụy). Tiếp đó, sông ngược lên trên qua địa phận hàng chục phường, xã, thị trấn thuộc các huyện Kiến Thụy, An Lão và các quận Đồ Sơn, Kiến An, Dương Kinh. Điểm đầu của sông Đa Độ là cống Trung Trang lấy nước từ dòng Văn Úc thuộc địa phận xã Bát Trang (huyện An Lão).
Thị trấn Núi Đối nhìn từ sông Đa Độ.      Ảnh: Trung Kiên
Thị trấn Núi Đối nhìn từ sông Đa Độ.
Ảnh: Trung Kiên
Cách đây chừng một hai tháng, trong lần chuyện trò với ông Hoàng Văn Khủng, nguyên Phó giám đốc Công ty TNHH MTV khai thác công trình thủy lợi Đa Độ- người từng gắn bó với dòng Đa Độ hàng chục năm, được biết, cái tên Cửu Biều Giang với hàm ý xưa kia dòng sông uốn khúc 9 đoạn từ trên cao nhìn xuống giống quả bầu, nhiều người rõ; nhưng cái tên chính Đa Độ nghĩa ra sao thì ít người biết. Theo cách lý giải của ông, Đa: nhiều, Độ: bến; Đa Độ đơn giản là dòng sông có nhiều bến ở đôi bờ. Nào là bến đò, bến thuyền, nào là bến nước, bến tắm, bến cá… Cái tên cổ này nói lên tầm quan trọng của sông Đa Độ với sản xuất nông nghiệp, giao thông vận tải và đời sống sinh hoạt của người dân sinh sống hai bên bờ.

Sau chừng 30 phút rẽ nước, khi chúng tôi có mặt ở khu vực cống Cổ Tiểu, gió mang hơi muối thổi từ biển vào mát rượi. Từ cống Cổ Tiểu, người điều khiển kéo mạnh tay ga để ca-nô “bay” trên mặt sông. Thế nhưng, chỉ chừng dăm bảy phút, lại phải trở về tốc độ “rùa bò”. Theo hướng chỉ tay của anh Tú trạm trưởng, trước mắt cơ man là bèo. Thưa thì quây thành khóm, dày thì ken thành mảng lớn. Có những thời điểm, mật độ bèo tây dày đến mức, có thể bước xuống đi bộ trên mặt sông chẳng khác gì trên bờ. Chính vì lớp bèo thường trực này mà 10 chuyến tuần tra dọc sông, có tới 4-5 lần ca-nô không thể đi được. Theo quy định, trừ những tình huống khẩn cấp, đặc biệt, mỗi tháng 3 lần, trạm phải tiến hành tuần tra dọc sông, cả đi lẫn về lên tới cả trăm cây số. Theo anh Tú, nhiều lần, trạm phải cắn răng thuê thuyền máy vừa đi trước dẫn đường, vừa kéo ca-nô vượt qua đoạn sông nhiều bèo. Chi phí cho mỗi lần thuê như vậy mất 700.000 đồng, tất nhiên không có hóa đơn chứng từ, trạm phải co kéo theo kiểu “giật gấu vá vai”.

Qua địa phận xã Đoàn Xá, lần lượt đến các xã Tân Phong, Minh Tân, thị trấn Núi Đối, xã Đại Đồng…, dù chuẩn bị tâm lý trước chuyến đi, nhưng việc được “mục sở thị” khiến chúng tôi kinh hoàng về tình trạng ô nhiễm của dòng sông vốn nổi tiếng đẹp và thơ mộng. Vừa đi, anh Tú vừa tranh thủ cung cấp một số thông tin nắm được về tình trạng ô nhiễm trên dòng sông mà anh gắn bó hơn 5 năm. Ngoài vô số trang trại chăn nuôi, khu dân cư, làng nghề, đáng sợ nhất là nước thải của nghĩa trang, bệnh viện, trạm y tế xã… cũng xả trực tiếp xuống sông.

Gắn bó cả tuổi thơ với dòng Đa Độ, trở về công tác tại trạm từ năm 2011 sau thời gian lênh đênh trên tàu viễn dương, cứ qua một trang trại, nhà máy, bệnh viện hay khu dân cư, anh Tú lại lắc đầu quầy quậy: “So với nhiều dòng sông tôi từng xuôi ngược, đôi bờ sông Đa Độ không có nhiều khu dân cư. Theo lẽ thường, nước sông phải sạch, trong. Vì thế, việc để nước sông ngày càng ô nhiễm, cần xem xét đến công tác quản lý và quy hoạch”. Thở dài một hơi, anh tiếp lời: “Hồi còn nhỏ, mỗi khi đi qua cầu Đối vào mùa hè, thấy bãi sen cạnh công viên Dương Kinh (thị trấn Núi Đối- PV), lúc nào cũng ngào ngạt hương sắc. Nhưng gần 10 năm trở lại đây, không hiểu sao tự nhiên sen “bay” hết sạch. Có lẽ loài hoa nổi tiếng “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” này không chịu được sự ô nhiễm của nước sông. Không biết sau sen, đến lượt loài nào sẽ trở thành “vật tế thần”?”.

Theo thống kê sơ bộ, có hơn 100 cơ sở sản xuất công nghiệp, khoảng trên dưới 50 làng nghề, gần 60 trạm y tế, 3 bệnh viện (Bệnh viện đa khoa huyện An Lão, Bệnh viện đa khoa huyện Kiến Thụy, Bệnh viện Lao và bệnh phổi Hải Phòng), 2 khu dân cư lớn (thị trấn Núi Đối và thị trấn Ruồn)… đang ngày ngày làm ô nhiễm nguồn nước sông Đa Độ. Trong khi đó, đây lại là nguồn cung cấp nước cho Nhà máy nước Cầu Nguyệt với công suất 40.000 m3/ngày, lớn thứ 2 trên địa bàn thành phố chỉ sau Nhà máy nước An Dương (140.000 m3/ngày).


Kỳ 2:  Bóp nghẹt dòng chảy

Trong hành trình ngược sông Đa Độ bằng ca-nô cùng cán bộ, nhân viên Trạm quản lý sông Đa Độ cũng như tìm hiểu thực tế, chúng tôi được tận mắt chứng kiến dòng chảy của sông đang bị những hành động cả vô tình lẫn cố ý của con người bóp nghẹt. Thực trạng này dễ dẫn tới đồng ruộng bị ngập úng vào mùa nước lên và sự không an toàn của các phương tiện thủy lưu thông trên sông.

Chỉ tay về đoạn sông bị phủ kín bởi bèo tây, chị Nguyễn Thị H., ở xã Đông Phương (huyện Kiến Thụy), công nhân doanh nghiệp nằm ven đường Phạm Văn Đồng (quận Dương Kinh), hỏi chúng tôi: “Các anh, các chị thấy có gì lạ không?”. “Toàn bèo tây, có gì lạ đâu?”- đồng nghiệp đi cùng nhanh nhảu. “Nhưng sao bèo lại không theo gió, theo nước chảy trôi đi mà cứ khoanh lại thành đám, lại “nấp” sau khu dân cư chứ?”- Chị H. gợi mở. Đúng là lạ thật khi bèo tây, dù nhiều, lại không lan tràn khắp mọi nơi ở mặt sông mà co cụm thành từng mảng, từng đám theo khu. Mà càng lạ hơn nữa, những đám bèo đó đều được những sợi dây thừng lớn, cách một đoạn được buộc một tấm phao nổi, quây lại. Khi được hỏi, liệu có phải có người quây lại để nuôi bèo không, anh Tú đặt câu hỏi ngược lại: “Vớt bèo về cho gà, cho lợn ăn, chỉ cần quơ vài quơ là đầy thuyền. Liệu có người rảnh rỗi đến mức bỏ tiền mua hàng trăm mét dây rồi bỏ công ra quây để chơi?”. Khi hỏi ai làm, anh không trả lời.

Theo tìm hiểu của chúng tôi, dọc chiều dài sông Đa Độ có 2 đội kênh trục chính Kiến Thụy và An Lão trực thuộc Công ty TNHH MTV khai thác công trình thủy lợi Đa Độ với trên dưới 40 cán bộ, nhân viên. Trước đây, việc vớt bèo bảo đảm dòng chảy cũng như giao thông đường thủy thuộc một số trạm khai thác công trình thủy lợi Đa Độ, nay thuộc về 2 đội trên. Nhiều lần phía công ty lý giải nguyên nhân tình trạng bèo ngập mặt sông là do thiếu kinh phí. Tuy nhiên, theo phản ánh của một số người dân sinh sống hai bên bờ, hiếm khi thấy có người vớt bèo. Để “né” các đoàn kiểm tra, khảo sát, ai đó nghĩ ra “sáng kiến” quây bèo núp sau khu dân cư hoặc nơi khuất nẻo nên đi trên đường ít khi quan sát thấy.

Cũng vì chuyện bèo ở một số đoạn quá nhiều và quá dày, nên mỗi chuyến đi tuần tra trên sông, bao giờ trong hành trang của anh em Trạm quản lý sông Đa Độ cũng có thêm con dao sắc để cắt dây cho bèo trôi. Thế nhưng, cứ cắt xong, lại có người nối lại. Điệp khúc cắt- nối, nối- cắt diễn ra hết ngày này qua ngày khác chẳng khác nào chuyện đóng cọc của người thả lờ bát quái hay dùng neo rê của đội kéo lưới vét.

Chả là ấm ức vì lưới vét đi đến đâu, càn quét đến nấy; một vài hôm nhấc hàng chục chiếc lờ bát quái mà chỉ được mớ cá vụn, một số ngư dân liền nghĩ ra chuyện đóng cọc dưới lòng sông, đầu cọc chìm dưới mặt nước chừng 1-2 mét. Không hiếm trường hợp người đánh lưới vét bị tan tành cả bộ lưới có giá hàng chục triệu vì “tiểu xảo” này. Để trả đũa, họ nghĩ ra cách cao tay hơn: dùng neo vừa chạy, vừa rê dưới đáy sông kéo theo hàng chục, hàng trăm chiếc lờ bát quái.

Tình trạng này không chỉ gây mâu thuẫn trong người dân tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất an toàn giao thông. Những ngày nước cạn, tàu thuyền qua lại trên mặt sông rất dễ “găm” phải cọc. “Ngoài tàu thuyền đánh bắt thủy sản, may mắn rất ít phương tiện vận tải qua lại trên mặt sông. Với tôi, dù thân thuộc với dòng sông, nhưng vừa lái ca-nô vừa run bởi chỉ cần quệt qua thôi cũng có thể lật nhào!”- anh Nhật, nhân viên lái ca-nô của trạm, giãi bày.

Góp phần vào tình trạng “bát nháo” trên dòng Đa Độ, phổ biển nhất là việc dựng chòi nổi trên mặt sông, thậm chí chặn một đoạn nhánh mở nhà hàng. Ở khu vực thị trấn núi Đối có khá nhiều nhà hàng kiểu này, trong đó có nhà hàng Ánh Tuyết và Liên Khánh. Bất chấp việc này vi phạm hành lang an toàn đường thủy, chẳng thấy cơ quan chức năng nào xử lý hay dỡ bỏ. Bên cạnh đó, người người, nhà nhà còn đua nhau cơi nới lấp sông. Đơn cử như trường hợp 1 hộ dân ở thôn Đức Phong (xã Đại Đồng) được huyện Kiến Thụy cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng sau đó thành phố ra quyết định thu hồi vì vi phạm hành lang an toàn giao thông đường thủy. Do huyện chưa bố trí mảnh đất khác “đền bù”, hộ dân này ngang nhiên đổ đất lấn sông trên diện tích mà giấy chứng nhận đã bị thu hồi. Hay mới nhất là trường hợp một hộ dân ở xã Mỹ Đức (huyện An Lão) ngang nhiên đổ đất lấn chiếm hành lang bảo vệ công trình thủy lợi cầu Nguyệt. Điều khó khăn là phía Trạm quản lý sông Đa Độ chỉ có thể lập biên bản rồi báo cáo cấp trên, chứ không có chế tài xử lý. Vì thế, bằng những cách khác nhau, dòng chảy của sông Đa Độ vẫn ngày ngày bị nhiều người chung tay bóp nghẹt.

Trong hành trình ngược sông Đa Độ, chúng tôi thấy dọc 2 bên bờ, những đoạn không có khu dân cư hay cơ sở sản xuất công nghiệp, đều được be đắp khá cẩn thận. Tìm hiểu được biết, đây là công trình bảo vệ nguồn nước, dòng chảy cũng như hệ thống thủy lợi. Không biết theo quy hoạch tuyến bờ này cao vào rộng bao nhiêu, nhưng từ trên cao nhìn xuống, chẳng khác gì con giun ngoằn nghèo. Nơi phình ra, chỗ lại thắt vào. Giống như tình trạng bèo tây, những nơi dễ quan sát thì to đẹp, bề mặt rộng trên dưới 5 mét, còn chỗ khuất nẻo thì vừa thấp, bề mặt chỉ trên dưới 2 mét (?).

Thực trạng nước bị ô nhiễm, hành lang an toàn giao thông đường thủy bị vi phạm, dòng chảy bị bóp nghẹt diễn ra ngày một trầm trọng trên sông Đa Độ. Thực tế này đòi hỏi phải có hành động ngay, kịp thời của các cơ quan chức năng, nhất là những đơn vị quản lý trực tiếp như Phòng Tài nguyên- Môi trường các quận, huyện hai bên bờ sông, Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Đa Độ, Công ty CP Bảo đảm giao thông đường thủy Hải Phòng, chính quyền các xã, phường quận, huyện trong việc nâng cao nhận thức của người dân, xử lý nghiêm những hành động vi phạm hay thái độ lơ là, thiếu trách nhiệm, thậm chí gian dối của những cá nhân, đơn vị trực tiếp quản lý.                       

Kỳ cuối: Tận diệt nguồn lợi thủy sản

Mới đây, dư luận xôn xao về chuyện một ngư dân đánh cá bắt được con ba ba “khủng” nặng tới 17,5 ở gần cầu Đối, thị trấn Núi Đối, huyện Kiến Thụy (cuối tháng 2-2016. Trong khi nhiều người mắt tròn, mắt dẹt về “cụ” ba ba được đồn đoán là có họ hàng xa với “cụ” rùa Hồ Gươm, anh H. (xã Đại Đồng, huyện Kiến Thụy), một người gắn bó với dòng Đa Độ cả chục năm với việc đánh bắt tôm cá bằng te kích điện, lại tỏ vẻ nghi hoặc, bởi theo anh, sông làm gì còn ba ba to như vậy sống hoang dã. Nhiều lần anh tận mắt chứng kiến chiêu trò của một số ngư dân.

Vào thời điểm đầu giờ trưa hoặc cuối giờ chiều, khi khách nhậu đến một số nhà hàng có chòi nổi ven sông để vừa nhấm nháp, vừa thưởng thức những cơn gió trong lành từ mặt sông thổi lại hay khung cảnh đẹp như tranh vẽ, một số ngư dân láu cá mắc sẵn vào lưới những con cá trắm đen, ba ba to (tất nhiên được nuôi) rồi kéo rê đến khu vực chòi nổi. Trong con mắt thích thú của khách nhậu, họ thản nhiên kéo lưới. Thế rồi a-lê-hấp, bỗng một chú trắm đen nặng đến dăm bảy ký, hoặc hơn, và ba ba chừng đôi ba ký, bỗng nổi lên quẫy trắng xóa cả một vùng mặt nước. Bị thuyết phục bởi màn “biểu diễn” vô tiền khoáng hậu này, thực khách, tất nhiên là không tiếc tiền đua nhau trả giá để được thưởng thức “hàng tự nhiên quý hiếm mục sở thị”. Giá ba ba nuôi tại các nhà hàng loại lớn chừng 600-700 nghìn đồng/ký lô, còn trắm đen ở chợ cũng chỉ hơn 100 nghìn đồng/cân, thì loại tự nhiên phải đắt gấp đôi, gấp ba. Tất nhiên, khi được tiếng là “đại gia”, chẳng ai tiếc tiền cho những món đồ “xịn”.

Thực tế, không chỉ ba ba, trắm đen, mà nguồn lợi thủy sản trên sông hầu như cạn kiệt. Ngoài những phương thức khai thác truyền thống, những “ngư dân chân chính” còn dùng đến những cách khai thác theo kiểu “không cho chúng nó thoát”. Ít vốn thì sắm bộ te kích điện rồi đẩy, chèo thuyền dọc đôi bờ. Cùng với những tiếng “te te, tè tè” nghe vui tai, tôm cá lớn nhỏ trong tầm vợt đều nổi trắng bụng. Và trứng tôm trứng cá chẳng bao giờ nở thành tôm con, cá nhỏ được nữa. Tuy nhiên, so với lưới màn, lưới vét, te kích điện chỉ là “muỗi”. Những bộ lưới màn, lưới vét, khi buông xuống quây kín cả một khoảnh sông. Từ cá vược, trắm đen cả chục cân đến cá mương chỉ bằng ngón tay trẻ nhỏ, chẳng con nào thoát.

Trong trí nhớ của ông Hoàng Văn Khủng, xưa kia dòng Đa Độ lắm tôm, nhiều cá. Trước đây, những canh nước đài 2, nhất là tang nước đêm giao thừa, chẳng bao giờ có nước mặn hay nước lợ. Người thủ cống khi ấy, bằng sự hiểu biết và dũng cảm, sẵn sàng mở toang cửa cống để đưa lượng lớn trứng tôm, trứng cá theo dòng nước ngọt tràn về sông. Vì thế, chuyện bắt được những con trắm đen, vược nặng hàng chục cân trên sông Đa Độ là “thường ngày ở huyện”! Nhưng theo thời gian, nguồn lợi thủy sản cạn kiệt dần. Chưa nhắc đến cách con người đối xử với sông (dùng nhiều dụng cụ, cách khai thác mang tính tận diệt và hủy diệt), sự hiểu biết của con người với dòng sông cũng là một điều đáng buồn. Từ khi cống Cổ Tiểu trở thành cống chuyên tiêu, có nghĩa chỉ mở ra để thoát nước ra biển, thì mất đi một lượng lớn trứng tôm cá.

Khi được hỏi, sao để tình trạng này liên tục diễn ra, anh Tú, Trạm trưởng Trạm quản lý sông Đa Độ, lắc đầu ngao ngán, đây không phải chức năng, nhiệm vụ của trạm cũng như bên phía Công ty TNHH MTV khai thác công trình thủy lợi Đa Độ, mà của ngành Tài nguyên Môi trường. Mà Phòng Tài nguyên Môi trường các huyện Kiến Thụy cũng như An Lão hay quận Dương Kinh và Kiến An thì lấy đâu ra người cũng như phương tiện (đường thủy) để kiểm tra, xử lý thường xuyên. Thậm chí, có khi thành phố tổ chức thả cá giống để tăng nguồn lợi thủy sản ở đầu nguồn, cuối nguồn họ giăng lưới bắt sạch. Những con rô phi, trắm, trôi, mè… chỉ bằng ngón tay cái ăn vừa đắng vừa tanh, chó mèo cũng chê huống chi con người, nên chỉ có nước nấu cho lợn. “Chẳng biết cá giống  người ta bán sao chứ loại cá này ngoài chợ, chỉ vài nghìn một cân thôi!”- anh Tú cho biết.

 “Năm này qua năm khác, hết te kích điện rồi đến lưới màn, lưới vét thi nhau “dọn sạch” tôm cá dưới sông. Theo đà này, chỉ một vài năm nữa, dưới sông sẽ chẳng còn gì. Tôi biết chắc là việc khai thác thủy sản bằng te kích điện bị cấm, nhưng một số người cứ nhơn nhơn làm mà chẳng bị cơ quan chức năng xử lý. Còn với lưới màn, lưới vét, dù không rõ nhưng theo tôi, nên cấm hoặc có quy định chặt chẽ về kích cỡ mắt lưới để những con tôm, cá nhỏ có cơ hội lớn lên!”- ông T., một ngư dân gắn bó với dòng sông mấy chục năm với nghề thả lờ bắt tôm, ngậm ngùi!.

Mặc dù chuyến ngược dòng Đa Độ không được trọn vẹn, bởi ca-nô không thể vượt qua đoạn bèo tây dài đến cả cây số ở đoạn giáp ranh giữa xã Đông Phương với phường Đa Phúc (quận Dương Kinh), nhưng qua hơn 10 cây số, chúng tôi thật sự buồn lòng trước những gì mắt thấy, tai nghe. Kết thúc chuyến ngược dòng này, anh Tú, Trạm trưởng Trạm quản lý sông Đa Độ, bộc bạch: “Hơn 3 năm làm thủy thủ tàu viễn dương từ năm 2006-2008, sóng to gió lớn nơi biển cả rèn cho tôi bản lĩnh cùng sự “gan lỳ” ghê gớm. Thế nhưng, chứng kiến dòng sông thân yêu bị đầu độc, bị người ta bóp nghẹt, nhiều lúc tôi không kìm được nước mắt!”.

Nghị quyết số 23/2013/NQ-HĐND của HĐND thành phố về mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ nguồn nước ngọt tại sông Rế, sông Giá, sông Đa Độ, sông Chanh Dương; kênh Hòn Ngọc, hệ thống trung thủy nông Tiên Lãng trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn 2013-2020 đề ra mục tiêu cụ thể cho giai đoạn 2013-2015: “Xử lý từ 30% trở lên lượng nước thải ra môi trường các lưu vực sông, trong đó 50%- 70% do doanh nghiệp xả thải; 100% do bệnh viện xả thải; bảo đảm thu gom toàn bộ lượng nước thải, không để xả thải trực tiếp ra sông Rế, sông Giá, sông Đa Độ, sông Chanh Dương; kênh Hò#n Ngọc, hệ thống trung thủy nông Tiên Lãng”. Thế nhưng, nước thải, nhất là các bệnh viện, vẫn được xả trực tiếp đầu độc sông Đa Độ. Nếu tình trạng như hiện nay tiếp diễn, chẳng lâu nữa Đa Độ sẽ trở thành dòng sông chết. Khi ấy, có đổ bao tiền của cũng như sức người, cũng chỉ là “xuống sông, xuống biển”.

Thứ Năm, 14 tháng 4, 2016

Hỗ trợ kinh phí để lò đốt rác thải hoạt động hiệu quả

Vừa qua, các ngành chức năng thành phố, huyện Vĩnh Bảo tổ chức đánh giá hiệu quả đầu tư lò đốt rác thải sinh hoạt theo công nghệ BD-Anpha tại thị trấn Vĩnh Bảo. Qua đánh giá cho thấy, lò đốt rác thải đưa vào hoạt động giảm nguy cơ ô nhiễm môi trường, cho hiệu quả xử lý cao hơn so với hình thức chôn lấp trước đây. Tuy nhiên, về lâu dài, việc quản lý, vận hành lò đốt rác gặp nhiều khó khăn, cần được thành phố hỗ trợ kinh phí.

Theo báo cáo của UBND thị trấn Vĩnh Bảo, mỗi ngày, trên địa bàn thị trấn phát sinh khoảng 10 tấn rác thải sinh hoạt. Trước đây, vì không có bãi rác thải tập trung nên rác thải được thu gom “đổ nhờ” tại bãi rác của xã Tam Đa, xã Tân Hưng hoặc tập kết tại bãi rác thải tạm khoảng hơn 1.000 m2, nằm ngay tại ngã 3 kênh cầu Tây và kênh Ba Đồng (cách nhà máy nước Vĩnh Bảo vài trăm mét). Có thời điểm bác rác tạm này đầy, ùn ứ, bốc mùi hôi thối, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, nhất là gây ô nhiễm nguồn nước thô cung cấp cho nhà máy nước Vĩnh Bảo. Việc này khiến người dân sống quanh khu vực bức xúc và lo lắng.

Để khắc phục tình trạng này, tháng 6-2015, thành phố đồng ý cho huyện Vĩnh Bảo xây dựng lò đốt rác thải sinh hoạt theo công nghệ BD-ANPHA (Nhật Bản) tại xứ đồng Đom Đóm, khu dân cư Nam Sơn, với diện tích 12.000 m2, tổng mức đầu tư hơn 5,7 tỷ đồng. Các hạng mục xây dựng gồm: thiết bị lò đốt, nhà xử lý rác, các công trình phụ trợ, hệ thống sấy rác và băng tải cao su. Đến tháng 7-2015, lò đốt rác hoàn thành và đưa vào sử dụng. UBND thị trấn Vĩnh Bảo giao Công ty CP môi trường Vĩnh Bảo quản lý, vận hành lò đốt rác.

Theo ông Nguyễn Văn Sơn, Chủ tịch UBND thị trấn Vĩnh Bảo, từ khi đưa vào vận hành, mỗi ngày lò đốt rác xử lý từ 6-7 tấn rác thải của hơn 2.500 hộ dân trên địa bàn thị trấn Vĩnh Bảo. Nếu hoạt động đúng theo thiết kế, mỗi ngày, lò đốt rác xử lý tối đa 12 tấn rác thải sinh hoạt, giải quyết được hết lượng rác phát sinh trên địa bàn. Từ khi lò đốt rác đưa vào hoạt động đến nay mang lại hiệu quả rõ rệt, không những làm giảm nguy cơ ô nhiễm do mùi hôi thối, nước rỉ từ rác ra ngoài môi trường, mà còn giảm diện tích đất chôn lấp rác thải, giảm kinh phí chi cho việc san lấp, xử lý môi trường tại bãi rác. Hơn nữa, công suất xử lý rác thải sinh hoạt nhanh, hiệu quả xử lý cao hơn so với hình thức chôn lấp trước đây.

Tuy nhiên, ông Sơn cho biết, thành phố chỉ đầu tư kinh phí xây dựng lò đốt rác theo công nghệ Nhật Bản, còn việc quản lý, vận hành là trách nhiệm của địa phương. Qua mấy tháng vận hành, lò đốt rác thải tại thị trấn bộc lộ một số hạn chế như: nhiệt độ của lò đốt khó đạt trên 1.000 độ C nên việc xử lý các chất độc hại trong khói thải rất khó kiểm soát, gây ô nhiễm môi trường không khí; tăng chi phí vận hành lò đốt (tiền điện, trả lương công nhân vận hành, thuê bảo vệ…). Chất thải sau khi đốt rác không tận dụng được mà phải sử dụng biện pháp chôn lấp để xử lý. Đặc biệt, việc quản lý, vận hành lò đốt rác cần nhiều công nhân (khoảng 16 công nhân chia làm 3 ca/ngày). Trước đây, khi chưa xây dựng lò đốt rác thải, huyện Vĩnh Bảo hỗ trợ 15 triệu đồng/tháng để địa phương xử lý rác thải theo phương pháp chôn lấp. Nhưng từ khi đưa lò đốt rác vào sử dụng, nguồn kinh phí này bị cắt, địa phương gặp khó khăn về kinh phí để duy trì và vận hành hệ thống này. Mọi chi phí phục vụ quản lý, vận hành lò đốt rác đều trông chờ vào nguồn lệ phí thu gom rác từ nhân dân.

Thực tế hiện nay, Công ty CP môi trường Vĩnh Bảo đang quản lý, vận hành lò đốt rác này có 30 cán bộ, công nhân, trong đó có 14 công nhân thu gom, 10 công nhân vận hành tại lò đốt. Mỗi tháng đơn vị trực tiếp thu gom rác thải sinh hoạt và thu phí vệ sinh môi trường đối với hơn 2.500 hộ dân và 30 cơ quan, trường học trên địa bàn thị trấn được khoảng hơn 60 triệu đồng. Trong khi đó, đơn vị phải chi gần 100 triệu đồng/tháng gồm: trả lương cho công nhân, bộ phận quản lý, tiền điện, nước, mua đồ bảo hộ lao động, thuê xe thu gom, vận chuyển rác từ khu dân cư về bãi tập kết để đốt rác…

Tại cuộc họp đánh giá hiệu quả lò đốt rác thải sinh hoạt tại thị trấn Vĩnh Bảo, lãnh đạo Sở Nông nghiệp, Sở TN&MT và các phòng, ban huyện Vĩnh Bảo cũng đồng ý với những đánh giá về ưu điểm, hạn chế của lò đốt rác công nghệ BD-Anpha này. Tuy nhiên, để lò đốt rác đem lại hiệu quả cao nhất, lãnh đạo địa phương đề nghị thành phố sớm có cơ chế hỗ trợ kinh phí quản lý, vận hành lò đốt hoặc quy định tăng mức thu phí vệ sinh môi trường, nhằm bảo đảm kinh phí trang trải cho công tác thu gom, xử lý rác thải tại lò đốt, tránh tình trạng khó khăn như hiện nay.

Chống ngập khu vực nội thành Hải Phòng
Nâng cao khả năng vận hành hệ thống thu nước và thoát nước

Năm 2016 được dự báo ít mưa, nhưng có khả năng xuất hiện những cơn mưa bất thường, mưa to. Từ cuối tháng 3 đến nay, Công ty TNHH MTV Thoát nước Hải Phòng triển khai chiến dịch nạo vét ga thu, tăng cường vệ sinh, bảo dưỡng hệ thống cánh cống, trạm bơm, cống ngăn triều và mương hồ nhằm tăng cường khả năng chống ngập trên địa bàn 4 quận Ngô Quyền, Lê Chân, Hồng Bàng và Hải An.

Tổng vệ sinh diện rộng

Chiến dịch nạo vét ga thu, tăng cường vệ sinh, chủ động chống ngập  trong mùa mưa bão là hoạt động được công ty triển khai sớm, trên diện rộng và duy trì từ nhiều năm qua. Trong dịp này, toàn thể công nhân của 4 xí nghiệp thoát nước được huy động tiến hành nạo vét ga thu hàm ếch trên tất cả các tuyến đường, ngõ ngách; phá dỡ vật cản trước miệng ga thu; vớt vật cản, mở rộng mương khơi thông dòng chảy; bơm rửa bờ kè các hồ điều hoà; dọn vệ sinh các trạm bơm nước thải, kiểm tra công tác vận hành trạm bơm, cống ngăn triều; kiểm tra và bảo dưỡng hệ thống cánh phai, van lật, cống ngăn triều; cập nhật số liệu về mưa cũng như tình trạng ngập lụt làm cơ sở cho việc quản lý và kịp thời sửa chữa các công trình, hệ thống thoát nước:

Với  tổng cộng 14 cống ngăn triều, 450km đường ống và gần 20.000 ga cống các loại, Hải Phòng được đánh giá là một trong những địa phương có hệ thống thoát nước đứng đầu toàn quốc. Tuy nhiên, hệ thống thoát nước đô thị của thành phố dùng chung cho thoát nước mưa và thoát nước thải; hạ tầng thoát nước do xây dựng từ lâu, nguồn vốn đầu tư còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu tốc độ đô thị hoá; tình trạng lấn chiếm lòng kênh, mương cũng như sự thiếu ý thức của một bộ phận người dân khiến khả năng tiêu thoát nước của hệ thống thoát nước đô thị Hải Phòng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Vớt bèo khơi thông dòng chảy tại kênh An Kim Hải trên địa bàn quận Hải An.
Vớt bèo khơi thông dòng chảy tại kênh An Kim Hải trên địa bàn quận Hải An.
Để tăng cường khả năng tiêu thoát nước cho đô thị, thời gian qua, Công ty Thoát nước triển khai nhiều giải pháp, trong đó chủ động khai thác hiệu quả chương trình hợp tác giữa Hải Phòng và thành phố Kytakyushu (Nhật Bản) trong lĩnh vực môi trường và cấp - thoát nước. Qua đó, tăng cường trao đổi thông tin, tập huấn kỹ năng chuyên ngành về quản lý hệ thống thoát nước, các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hệ thống thoát nước. Đặc biệt, lần đầu Công ty thoát nước Hải Phòng thí điểm chương trình kiểm tra lòng cống thoát nước bằng thiết bị tivi camera để phát hiện các điểm rò rỉ, nứt vỡ và ách tắc thay thế con người do Cục Cấp thoát nước thành phố Kytakyushu hỗ trợ về thiết bị và kỹ thuật.

Chú trọng giải quyết các trọng điểm ngập

Cùng với tổng vệ sinh và bảo dưỡng thiết bị tổng thể, công ty tập trung cao cho những điểm có nguy cơ ngập lụt khi xảy ra những cơn mưa lớn hơn 100mm.

Theo Chủ tịch, Tổng giám đốc Công ty Thoát nước Nguyễn Minh Tuấn, hơn 3 năm qua, nhiều trọng điểm ngập trên địa bàn 4 quận được công ty tập trung giải quyết, do đó diện ngập, thời gian và chiều cao ngập tại nhiều điểm giảm khá rõ. Tuy vậy, với những cơn mưa lớn hơn 100mm, còn những điểm đáng lo ngại trên các tuyến đường như : Đình Đông, An Đà, Lê Lợi (quận Ngô Quyền); Minh Khai, Đường 5 (cũ) thuộc quận Hồng Bàng; khu bãi Cát, đường  Văn Cao, Đông Hải 1 (quận Hải An); Tô Hiệu (quận Lê Chân)...Theo đó, công ty chỉ đạo các xí nghiệp chú trọng chống ngập tại các điểm này. Trong đó, khu vực Đông Hải 1, đơn vị tiến hành cơi cổ ga, sửa chữa ga hỏng đường Bùi Thị Tự Nhiên; nạo vét lợi ga hàm ếch các đường : Cát Bi, Lý Hồng Nhật, Trần Văn Lan, Hào Khê, Nguyễn Thị Thuận, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phủ Thượng Đoạn, đường 193 Văn Cao... Trước đó, công ty tiến hành đấu nối đoạn cống từ đường Bùi Tự Nhiên đến đường Phương Lưu; trung tu nạo vét bùn đường Phương Lưu (từ ngõ 202 đến đoạn cống D800 đường Phương Lưu; trung tu nạo vét bùn đường Phủ Thượng Đoạn (từ ngã tư đường Bùi Thị Tự Nhiên đến đường Đà Nẵng; đấu nối cống thoát nước từ số 186 đến số 210 đường Phủ Thượng Đoạn (khu vực đền Phú Xá); cải tạo thoát nước ngõ 67 đường Ngô Gia Tự. Đối với khu vực Đình Đông và An Đà đơn vị duy trì tốt dòng chảy điểm xả cửa Chợ Hàng (Cống Tây ra kênh An Kim Hải và Cống Tây ra kênh Tây Nam), tăng cường thoát nước về phía đường Lạch Tray. Đồng thời, tăng cường khả năng tiêu thoát nước cho các cửa xả tại khu vực đường An Đà.

Để chống ngập khu vực Tô Hiệu, đơn vị cải tạo, sửa chữa, thông rửa hệ thống thoát nước đường Lạch Tray; cống, ga đường Tô Hiệu ( từ ngã tư Chùa Hàng đến Lạch Tray), Hàng Kênh (từ Tô Hiệu đến ngã ba Đình Đông) và sửa chữa, thông rửa hệ thống thoát nước đường Chùa Hàng, ngõ Lâm Tường, đường Mê Linh (đoạn từ ngã tư Hồ Sen đến đường Hai Bà Trưng. Trên địa bàn quận Lê Chân, đường Trần Nguyên Hãn (khu vực bến xe Niệm Nghĩa đến đường Nguyễn Văn Linh) cũng được cải tạo. Tại quận Hồng Bàng, đơn vị cải tạo thoát nước đường tàu Bãi Sậy khu tập thể Trại Chuối. Tiến hành chống ngập một số điểm dọc đường Nguyễn Văn Linh, đường 5 (cũ); sửa chữa cải tạo cống hộp đường 5 (trước cửa đơn vị phòng cháy chữa cháy đến số 312 Hùng Vương). Đặt cống thoát nước đường Hùng Vương (đoạn cây xăng 310 Hùng Vương)...

Thứ Năm, 7 tháng 8, 2014

Luật Bảo vệ môi trường 2014: Hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2015
Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2015, gồm 20 chương 170 điều, quy định về hoạt động bảo vệ môi trường; chính sách, biện pháp và nguồn lực để bảo vệ môi trường; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trong bảo vệ môi trường. Điểm nổi bật cơ bản của Luật Bảo vệ môi trường 2014 là:
- Quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường; quy định cụ thể hơn về nội dung phải có báo cáo đánh giá môi trường chiến lược; bổ sung quy định về cam kết bảo vệ môi trường. Luật quy định bổ sung và cụ thể về trách nhiệm của các hộ gia đình, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tại các làng nghề; các điều kiện về bảo vệ môi trường tại các làng nghề; trách nhiệm của UBND cấp xã, cấp huyện và cấp tỉnh đối với bảo vệ môi trường làng nghề. Đồng thời, bổ sung trách nhiệm của người tiêu dùng và cơ quan quản lý nhà nước bên cạnh trách nhiệm của nhà sản xuất đối với việc thu hồi các sản phẩm hết hạn sử dụng và thải bỏ; bổ sung quy định trách nhiệm của các chủ đầu tư khu công nghiệp, khu chế xuất trong quản lý chất thải.
- Quy định thêm những hành vi bị nghiêm cấm (điều 7)
- Quy định cụ thể thêm về nội dung, nguyên tắc và trách nhiệm thực hiện quy hoạch bảo vệ môi trường (mục 1, chương 2)
- Quy định thêm các nội dung chính của báo cáo đánh giá và cách thực hiện đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC); bổ sung đối tượng phải lập ĐMC (điều 14, điều 15)
- Bỏ một số quy định cụ thể trong luật về đối tượng phải lập đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và giao Chính phủ quy định chi tiết danh mục các dự án thuộc diện này (điều 18)
- Quy định thêm đối tượng, nội dung, trình tự lập kế hoạch bảo vệ môi trường tại mục 4 chương 2
- Việc bảo vệ môi trường trong khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên được cụ thể hóa hơn tại chương 3.
- Để nội dung của luật nhanh chóng đi vào cuộc sống, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang soạn thảo dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường. Dự thảo Nghị định gồm 8 chương, 57 điều. Bên cạnh những quy định chung, Bộ Tài nguyên-Môi trường đề xuất nhiều quy định cụ thể về kiểm soát ô nhiễm môi trường đất; bảo vệ môi trường làng nghề; bảo vệ môi trường đối với hoạt động nhập khẩu, phá dỡ tàu biển đã qua sử dụng; bảo vệ môi trường đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; ưu đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường; cộng đồng dân cư tham gia bảo vệ môi trường…

Thứ Năm, 13 tháng 3, 2014

Chất lượng nước sạch ngày càng tăng
2/20/14 12:56 PM
Đây là phát biểu của Thứ trưởng Bộ Xây dựng Cao Lại Quang tại Hội nghị ban chấp hành hội cấp thoát nước Việt Nam lần thứ 5 nhiệm kỳ IV diễn ra chiều 18/2 tại TPHCM.
Theo Thứ trưởng Cao Lại Quang, mức tăng trưởng trong khai thác, xử lý và cung cấp nước sạch tăng 9,5%, độ bao phủ tăng 1,5%. Đặc biệt tỷ lệ thất thoát giảm nhanh, lượng nước thất thoát toàn quốc ở mức bình quân 26%, giảm 3% so với năm 2012.
“Đây là một cố gắng lớn của ngành nước nhờ vào việc tích cực đầu tư nâng cấp dây truyền công nghệ, thay thế ống cũ, nâng cao chất lượng quản lý, sử dụng các phần mềm tiên tiến…
Điển hình như một số doanh nghiệp tại TPHCM, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tiền Giang, Sóc Trăng… Tuy nhiên, vẫn còn 30% các Cty cấp nước có mức thất thoát nước cao từ 26-35%.
Bên cạnh đó, lĩnh vực thoát nước và xử lý nước thải có mức tăng trên 1%, khắc phục được tình trạng ngập ngúng tại một số đô thị lớn. Nhiều công trình xử lý nước thải đã và đang được đầu tư xây dựng, tuy nhiên quản lý thoát nước và xử lý nước thải vẫn còn nhiều khó khăn hơn so với cấp nước”, Thứ trưởng Cao Lại Quang nhấn mạnh.
Đánh giá hoạt động của hội cấp thoát nước Việt Nam (VWSA) trong năm 2013, Ông Trần Quang Hưng, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký VWSA cho biết: Trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế nhưng các Cty cấp thoát nước đã có nhiều cố gắng duy trì và phát triển sản xuất đảm bảo cấp nước, thoát nước đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và doanh nghiệp.
Bình quân chung trong khai thác, cung cấp, xử lý nước sạch, nước thải, rác thải vẫn tăng trên 10%. Hoạt động của hội và các chi hội đã đạt được nhiều kết quả như chú trọng bảo vệ quyền lợi cho các hội viên, tham gia phản biện góp ý cho các chính sách liên quan tới ngành nghề cấp thoát nước.
Các chương trình trọng điểm đều được tập hợp từ thực tế ngành nên rất được chú trọng như tham gia xây dựng Nghị định 88 về thoát nước, đánh giá về tình hình quản lý thoát nước và xử lý nước thải đô thị của Việt Nam…
Bên cạnh đó, VWSA và hội hợp tác ngành nước Đức đã triển khai dự án hỗ trợ nâng cao chất lượng hoạt động của hội. Hai bên đã tiến hành khảo sát và đánh giá về nguồn nhân lực của chuyên ngành cũng như nhu cầu đào tạo đến năm 2020.
Bên cạnh nhiệm vụ của VWSA trong năm 2014 – 2015 là tập trung giải quyết các vướng mắc trong quá trình thực hiện các chế độ, chính sách liên quan đến chuyên ngành.
Đề xuất và tham gia xây dựng định mức chuyên ngành cho cấp thoát nước cũng như hỗ trợ và tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất vật tư, thiết bị chuyên ngành nước phát triển.
Riêng trong năm 2014 tổ chức lấy ý kiến về những thuận lợi và khó khăn trong việc áp dụng các thông tư liên bộ về giá nước sạch và Nghị định 142 bổ sung một số điều cho nghị định 177. Triển khai kế hoạch cấp nước an toàn giai đoạn 3 cho các Cty cấp nước, xây dựng tiêu chuẩn đánh giá cấp nước an toàn…
Khai thác lợi thế trong quá trình thực hiện các dự án hợp tác với Hội phát triển ngành nước Đức để tham gia có hiệu quả các dự án hỗ trợ như các dự án nước và vệ sinh cho các đô thị vừa và nhỏ, dự án đào tạo nghề cho công nhân trong lĩnh vực xử lý nước thải…
Tại hội nghị các đại biểu cũng đã nghe dự thảo đề cương Chiến lược phát triển hội cấp thoát nước Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2025 với chủ đề “đổi mới nhận thức, nâng cao vị thế, phát triển bền vững”.
Các đại biểu đã đồng tình nhất trí cần có chiến lược phát triển và đóng góp nhiều ý kiến quý báu cho VWSA. Ông Nguyễn Như Hải, Tổng giám đốc Cty TNHH MTV nước sạch Hà Nội nhìn nhận: Cơ chế chính sách chưa xứng tầm với hoạt động trong lĩnh vực cấp nước, do đó vẫn chưa quyết định được giá của nước sạch.
Đầu vào của nước thì theo thị trường còn đầu ra thì do chủ động của đơn vị hoặc hỗ trợ từ chính quyền địa phương. Chính sách về giá nước là quan trọng quyết định tất cả. Hoạt động của ngành nước đang còn khiêm tốn so với ngành điện, hay bưu chính viễn thông…
Phát triển nguồn nhân lực cho ngành nước, cần phải quan tâm tới vấn đề đào tạo cơ bản của ngành nước phù hợp và có kế hoạch hoàn chỉnh theo lộ trình để nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ công nhân ngành nước.
Tăng cường giao lưu trao đổi để gắn kết tìm hiểu để có những hỗ trợ giúp đỡ giữa các hội viên và hội cấp thoát nước, cần sự quan tâm của hội, các chi hội thật sự có hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và cùng phát triển.

Thứ Sáu, 7 tháng 3, 2014

Nghiệm thu đề tài: Xây dựng hướng dẫn quy hoạch quản lý chất thải rắn cấp xã, cụm xã và cấp huyện
3/7/14 11:10 AM
Toàn cảnh
Ngày 06/03/2014, tại Bộ Xây dựng, Hội đồng KHKT chuyên ngành Bộ Xây dựng đã họp nghiệm thu đề tài: Xây dựng hướng dẫn quy hoạch quản lý chất thải rắn cấp xã, cụm xã và cấp huyện do Viện Quy hoạch môi trường và Hạ tầng kỹ thuật đô thị, nông thôn (IRURE) chủ trì thực hiện. Tiến sĩ Nguyễn Trung Hòa – Vụ trưởng Vụ KHCN&MT, Bộ Xây dựng làm Chủ tịch Hội đồng.
Thay mặt nhóm tác giả thực hiện Đề tài, Ths. Nguyễn Thị Lan Anh đã trình bày tóm tắt nội dung đề tài. Theo nhóm nghiên cứu, hiện nay việc xử lý chất thải rắn (CTR) tại khu vực nông thôn đang là vấn đề cấp thiết, đặc biệt là trong tiến trình xây dựng nông thôn mới đang được Đảng và nhà nước cùng các địa phương quan tâm. Tuy nhiên, các địa phương hiện nay vẫn còn đang khó khăn trong việc áp dụng phương pháp và cách thức để xử lý chất thải rắn tại chỗ, chính vì thế đề tài nghiên cứu này được thực hiện với mục đích tổng hợp phân tích hiện trạng, làm cơ sở xây dựng Hướng dẫn quy hoạch quản lý chất thải rắn cấp xã, cụm xã và cấp huyện, áp dụng cho các cấp chính quyền, các cơ quan tư vấn, các cơ quan quản lý về bảo vệ môi trường và hạ tầng kỹ thuật cấp xã, cấp huyện.

Kết quả nghiên cứu của đề tài đã đưa ra được Quy trình lập Quy hoạch quản lý chất thải rắn gồm 8 bước: Khảo sát, phân tích đánh giá hiện trạng quản lý CTR; Thiết lập mục tiêu và phạm vi quy hoạch; Dự báo nguồn CTR phát sinh; Quy hoạch hệ thống phân loại CTR tại nguồn, tái chế, tái sử dụng CTR; Quy hoạch thu gom, vận chuyển, trạm trung chuyển CTR; Xử lý và tái chế CTR; Xây dựng kế hoạch thực hiện và lộ trình thực hiện quy hoạch; Chuẩn bị hồ sơ trình thẩm định và phê duyệt quy hoạch.

Nhóm thực hiện đề tài cũng đưa ra được 6 mô hình thu gom, vận chuyển CTR bao gồm: Mô hình quản lý CTR liên huyện; Mô hình quản lý CTR tập trung cấp huyện; Mô hình quản lý CTR bán tập trung cấp huyện; Mô hình quản lý CTR tập trung cấp xã; Mô hình quản lý CTR bán tập trung cấp xã; Mô hình quản lý CTR phân tán cấp xã.

Các ủy viên phản biện và thành viên Hội đồng đều đánh giá cao nỗ lực của nhóm tác giả thực hiện Đề tài, tuy nhiên nhóm tác giả cần phải soát xét và chỉnh sửa lại một số lỗi chính tả, thuật ngữ chuyên ngành, các phương pháp xử lý CTR cho phù hợp với điều kiện kinh tế của khu vực nông thôn nước ta hiện nay. Đồng thời, các thành viên Hội đồng cũng cho rằng, nếu căn cứ theo hệ thống pháp luật hiện hành thì chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về lập quy hoạch chất thải rắn cho khu vực nông thôn, tuy nhiên đề tài nghiên cứu này sẽ là tài liệu tham khảo quý báu cho các nhà quản lý, và là cơ sở để cơ quan quản lý nhà nước ban hành được những văn bản hướng dẫn cụ thể cho hoạt động quản lý và xử lý chất thải rắn nông thôn.

Kết luận cuộc họp, Chủ tịch Hội đồng Nguyễn Trung Hòa đề nghị nhóm tiếp thu ý kiến đóng góp của các thành viên Hội đồng, bổ sung và chỉnh sửa để đề tài được hoàn thiện hơn.

Đề tài được Hội đồng nhất trí nghiệm thu với kết quả xếp loại Khá.