Thứ Bảy, 7 tháng 7, 2012

Tìm đòn bẩy cho thị trường vật liệu xây không nung

16/06/2012 20:18

Với những tính năng ưu việt, dòng sản phẩm vật liệu xây không nung được xác định sẽ chiếm lĩnh thị trường xây dựng trong tương lai, giảm dần tỷ lệ vật liệu nung. Mặc dù có các tiêu chí rất rõ ràng nhưng trong quá trình thực hiện lộ trình phát triển vật liệu xây không nung vẫn nảy sinh nhiều khó khăn, vướng mắc cần một “đòn bẩy” gỡ khó.


Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Nên chọn hướng nào?

Nhu cầu về vật liệu xây tại Việt Nam tăng rất nhanh, khoảng 10-12%/năm. Nếu theo Quy hoạch tổng thể phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam đến năm 2020, nhu cầu sử dụng vật liệu xây vào năm 2015 và 2020 tương ứng khoảng 32 và 42 tỷ viên quy tiêu chuẩn.

Tuy nhiên, để sản xuất một tỷ viên gạch đất sét nung quy tiêu chuẩn sẽ tiêu tốn khoảng 1,5 triệu m3 đất sét, tương đương 75ha đất nông nghiệp (độ sâu khai thác là 2m) và 150.000 tấn than, đồng thời thải ra khoảng 0,57 triệu tấn khí CO2 - tác nhân gây hiệu ứng nhà kính và các khí thải độc hại khác gây ô nhiễm môi trường. Như vậy, đến năm 2020, nếu đáp ứng nhu cầu vật liệu xây hoàn toàn bằng gạch đất sét nung sẽ tiêu tốn mỗi năm khoảng 57-60 triệu m3 đất sét, tương đương 2.800 đến 3.000ha đất nông nghiệp làm ảnh hưởng đến an ninh lương thực quốc gia; đồng thời tiêu tốn 5,3-5,6 triệu tấn than và thải ra môi trường khoảng 17 triệu tấn khí CO2.

Bức tranh được phác họa từ những con số trên chính là lời thúc giục các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng buộc phải trả lời câu hỏi “nên chọn hướng nào?” để đảm bảo hài hòa lợi ích của cả cộng đồng.

Hiện nhiều nước trên thế giới đã loại bỏ vật liệu nung và thay thế bằng vật liệu xây không nung. Tại Việt Nam , phương án này cũng đã được ghi nhận và triển khai thực tế. Các chuyên gia trong ngành ghi nhận việc sử dụng vật liệu xây không nung sẽ hạn chế được các tác động bất lợi nêu trên, đồng thời đem lại nhiều hiệu quả tích cực về các mặt kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường. Quá trình sản xuất vật liệu xây không nung còn giúp tiêu thụ một phần đáng kể phế thải các ngành khác như nhiệt điện, luyện kim, khai khoáng..., góp phần tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu ô nhiễm môi trường cũng như các chi phí xử lý phế thải.

Theo quy hoạch phát triển ngành điện và luyện kim, lượng tro, xỉ phát thải hàng năm sẽ tăng rất nhanh. Dự kiến đến năm 2020, lượng phế thải tro, xỉ khoảng 45 triệu tấn sẽ mất khoảng 1.100ha mặt bằng chứa phế thải. Trong khi đó, nếu tái sử dụng một phần nguồn thải này không chỉ giúp giải phóng được mặt bằng kho bãi mà còn tiết kiệm nguyên liệu sản xuất.

Đặc biệt, các loại vật liệu xây không nung đã nhanh chóng chứng minh được một số ưu điểm nổi bật như: nhẹ - giúp giảm tải trọng công trình, do đó tiết kiệm chi phí làm móng và khung chịu lực, đẩy nhanh tiến độ thi công; tính cách nhiệt cao, góp phần tích cực vào chương trình tiết kiệm năng lượng. Bởi vậy, Quyết định số 567/QĐ-TTg ngày 28/4/2010 về Chương trình phát triển vật liệu xây không nung đến năm 2020 đã nêu rõ mục tiêu phát triển dòng sản phẩm này.

Theo đó, sản xuất và sử dụng vật liệu xây không nung nhằm thay thế gạch đất sét nung, tiết kiệm đất nông nghiệp, góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, giảm thiểu khí phát thải gây hiệu ứng nhà kính và ô nhiễm môi trường, giảm chi phí xử lý phế thải của các ngành công nghiệp, tiết kiệm nhiên liệu than, đem lại hiệu quả kinh tế chung cho toàn xã hội.

Đối diện khó khăn

Phải thừa nhận rằng mặc dù đã có các tiêu chí rất rõ ràng nhưng trong quá trình thực hiện lộ trình này vẫn nảy sinh nhiều khó khăn, vướng mắc cần sớm được tháo gỡ.

Do các nhà máy sản xuất bêtông nhẹ ra đời vào lúc kinh tế nước gặp khó khăn, lạm phát cao, đầu tư công bị cắt giảm, thị trường bất động sản trầm lắng, chi phí tài chính lớn... khiến dòng sản phẩm này tiêu thụ chậm, hàng tồn kho nhiều dẫn đến sản xuất bị ngừng trệ.

Thống kê tình hình sản xuất và tiêu thụ một số loại sản phẩm vật liệu xây không nung trong năm 2011 cho thấy đa số các dây chuyền gạch block đã sản xuất hết công suất, tổng sản lượng đạt khoảng ba tỷ viên quy tiêu chuẩn nhưng sản lượng tiêu thụ chỉ đạt khoảng 85-90% lượng sản xuất. Cùng đó, gạch bêtông nhẹ với sản lượng bêtông khí khoảng 0,4 triệu m3, bêtông bọt khoảng 0,1 triệu m3 cũng chỉ có mức tiêu thụ vào khoảng 50-60% sản lượng. Tấm tường thạch cao, tấm 3D cùng một số chủng loại sản phẩm khác cũng rơi vào tình trạng ế ẩm tương tự...

Nguyên nhân được chỉ ra là do các nhà đầu tư còn thiếu kinh nghiệm, nguồn vốn lại hạn chế nên phần lớn chỉ nhập hệ thống dây chuyền công nghệ với trình độ trung bình, thiếu đồng bộ. Cùng đó, công tác chuyển giao công nghệ, kỹ thuật sản xuất và tiếp thu công nghệ chưa tốt; cộng với đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật chưa được đào tạo chu đáo... nên các nhà máy phải vừa sản xuất vừa điều chỉnh, khắc phục các mặt yếu để ổn định sản xuất.

Khó khăn càng dồn đến với doanh nghiệp khi lãi suất vay vốn để đầu tư vào sản xuất tăng ở mức cao (quanh mốc 20%/năm) trong khi thủ tục vay vốn tại các ngân hàng thương mại cũng rất khó khăn. Những yếu tố này khiến giá thành sản xuất tăng. Điển hình như giá thành sản xuất bêtông khí chưng áp AAC hiện tại cao hơn so với gạch đất sét nung khoảng 20-25% do chi phí sản xuất cao hơn. Như vậy, khó khuyến khích phát triển vật liệu xây không nung. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây không nung vẫn chưa được hưởng các ưu đãi theo quy định tại Quyết định 567 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ.

Mặt khác, nhận thức của các nhà đầu tư, tư vấn thiết kế, nhà thầu và người tiêu dùng về dòng sản phẩm này chưa đầy đủ; thậm chí thiếu hiểu biết về vật liệu xây không nung nói riêng và bê tông khí nói chung. Để đạt các mục tiêu đã đề ra trong lộ trình phát triển vật liệu xây không nung cần có sự trợ giúp của cả xã hội, nhất là các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng và người tiêu dùng.

Đón chờ “đòn bẩy”

Chương trình 567 với mục tiêu phát triển sản xuất và sử dụng vật liệu xây không nung thế gạch đất sét nung đạt tỷ lệ 20-25% vào năm 2015 đã được xã hội và các doanh nghiệp rất quan tâm. Chỉ tính ba chủng loại sản phẩm chính là gạch ximăng-cốt liệu, gạch bêtông khí chưng áp và gạch bêtông bọt thì tổng công suất đầu tư đã đạt 4,2 tỷ viên quy tiêu chuẩn/năm, chiếm từ 16-17 % so với tổng sản lượng vật liệu xây năm 2011, ước đạt 25 tỷ viên. Trong khi đó, cuối năm 2008, sản lượng vật liệu xây không nung mới chỉ chiếm 8-8,5%. Điều này cho thấy các doanh nghiệp đã chủ động chọn hướng đi mới.

Cùng đó, tỷ lệ gạch nhẹ trên tổng số vật liệu xây không nung phấn đấu đạt mục tiêu khoảng 21% vào năm 2015 và 25% vào năm 2020 thì nay đã đạt 1,2 tỷ viên quy tiêu chuẩn/năm (chiếm khoảng 28,6%) - vượt mục tiêu đề ra. Tổng giá trị các doanh nghiệp đã đầu tư đến cuối năm 2011 khoảng hơn 2.500 tỷ đồng, trong đó đầu tư sản xuất vật liệu xây không nung nhẹ (bêtông khí chưng áp và bêtông bọt) cũng gần 1.000 tỷ đồng.

Tuy nhiên, đòn bẩy thực sự cho thị trường chính là Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 16/4/2012 về tăng cường sử dụng vật liệu không nung, hạn chế sử dụng gạch đất sét nung của Chính phủ. Cùng với các hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật đã được Bộ Xây dựng ban hành, các doanh nghiệp kỳ vọng đây sẽ là lối mở để vật liệu không nung tiến quân, trước tiên là vào các công trình sử dụng vốn ngân sách.

Với sự hỗ trợ của các cơ chế chính sách, cùng những ủng hộ tích cực từ xã hội, hy vọng thời gian tới các doanh nghiệp sản xuất vật liệu không nung có thể toàn tâm toàn ý tập trung xúc tiến thương mại và quảng bá kích cầu sản phẩm./.

Nhiều giải pháp công nghệ mới tại tuần lễ nước Singapore

Nhiều giải pháp công nghệ mới tại tuần lễ nước Singapore
Nhiều giải pháp công nghệ mới đã được các công ty Nhật Bản giới thiệu tại sự kiện về nước sạch và môi trường quốc tế tổ chức tại Singapore.
Nhiều giải pháp công nghệ mới đã được các công ty Nhật Bản giới thiệu tại sự kiện về nước sạch và môi trường quốc tế tổ chức tại Singapore từ ngày mùng 2 đến 4/7.

Ba sự kiện lớn mang tính toàn cầu, gồm Tuần lễ nước Singapore (Singapore International Water Week), Hội nghị Làm sạch môi trường (CleanEnviro Summit) và Hội nghị các thành phố quốc tế (World Cities Summit) đã được tổ chức tại trung tâm triển lãm Sands Expo & Convention, Marina Bay (Singapore), thu hút sự tham gia của 900 công ty đến từ khắp nơi trên thế giới trong lĩnh vực nước sạch và môi trường. Mỗi sự kiện đều đưa ra nhiều giải pháp và câu trả lời trước những thách thức lớn về biến đổi khí hậu cũng như tốc độ đô thị hóa quá nhanh tại châu Á.

Tại Water Expo, ban tổ chức đã tổ chức thành 16, mỗi khu lại tập hợp các gian triển lãm của các công ty tới từ một quốc gia hay vùng lãnh thổ khác nhau. Tại khu Nhật Bản, khách tham quan dễ dàng nhận ra các gương mặt quen thuộc tròn lĩnh vực xử lý nước như Toshiba, Hitachi, Swing và Kobelco Eco Solutions.



Tại triển lãm, hãng Toshiba đã giới thiệu hệ thống lọc mang tên Feed Filtration Systemkhông sử dụng hóa chất đông tụ.

Với ý thức bảo vệ môi trường, Toshiba đã sử dụng loại bột có chức năng hoạt tính để thay cho hóa chất đông tụ, vốn thừa lại dưới dạng chất thải sau khi nước đi qua hệ thống lọc. Khi chất làm đông bị loại bỏ thì các chất thải cũng được giảm thiểu tới mức tối đa, trong khi loại bột có chức năng hoạt tính vẫn có thể được tái sử dụng, giúp cắt giảm chi phí tới 40% khi xử lý nước thải.





Hệ thống này bắt đầu được vận hành từ ngày 27/6 để xử lý nước thải tại nhà máy của Fujitsu ở Nagano. Toshiba biện có kế hoạch giới thiệu công nghệ này tới nhiều nước châu Á, thúc đẩy sự cần thiết của việc bảo vệ môi trường trong công nghệ xử lý nước.

Tại triển lãm, Toshiba cũng giới thiệu hình ảnh về hoạt động của công ty trong các dự án phát triển ở Việt Nam, Trung Quốc và Indonesia.



Toshiba cũng giới thiệu hệ thống khử trùng bằng tia tử ngoại (UV) cũng như hệ thống tách chất lỏng-chất rắn.





Trong khi đó, tại triển lãm lần này, Hitachi lại giới thiệu hệ thống quản lý nước thông minh bằng công nghệ thông tin.



Hitachi đã trình bày một nghiên cứu tại Maldives. Ở quốc đảo này, Hitachi Plant Technologies đã mua lại 20% cổ phần của công ty kinh doanh và xử lý nước Male, đồng thời cung cấp các công nghệ cả phần cứng lẫn phần mềm.

Theo đó, hệ thống quản lý mạng đường ống và hệ thống xử lý nước thải sử dụng bản đồ dữ liệu GIS giúp công ty điều hành công việc một cách hiệu quả hơn. Hệ thống có chức năng hiển thị, tìm kiếm và phân tích, cho phép mô phỏng lưu lượng, áp lực nước từ các dữ liệu thu được, ghi lại độ cao, chiều dài, kích thực hay vật liệu sử dụng lắp đường ống nước. Kết quả mô phỏng được sử dụng cho biết lập kế hoạch bảo trì, ngăn ngừa mất nước và lãng phí nước tại đường ống dưới lòng đất.



Tại thành phố Hồ Chí Minh, 40% tổng lượng nước bị lãng phí mà không đem lại lợi nhuận là trong quá trình cấp nước. Trong khi đó, tỷ lệ này ở Tokyo chỉ là 30%. Chính vì vậy, Hitachi sẽ giới thiệu công nghệ này tại Việt Nam cũng như Đông Nam Á trong tương lai gần, góp phần giảm thiểu sự lãng phí nước sạch.



Dự án nghiên cứu cũng đã được thực hiện tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội với ngân sách 100 tỷ yen tài trợ bởi Ngân hàng phát triển châu Á ADB, nhằm thay thế mạng lưới đường ống ngầm hiện tại.

Hiệu quả của hệ thống quản lý cấp nước cũng sẽ giảm thiểu năng lương tiêu thụ trong vận hành máy bơm so với công nghệ quản lý bằng sức ép như hiện tại.



Trong năm tài khóa vừa qua, ngành kinh doanh trong lĩnh vực cấp nước và xử lý nước thải của Hitachi đã đạt lợi nhuận 100 tỷ yen và công ty cũng đang hướng tới việc mở rộng thị trường ra toàn cầu. Hitachi đặt mục tiêu đạt lợi nhuận 200 tỷ yen trong năm tài khóa 2015 với mức tăng trưởng ở thị trường hải ngoại là từ 10 đến 40%, thông qua việc cung cấp các giải pháp thông minh trong hợp tác với các đối tác địa phương, đáp ứng nhu cầu địa phương.



Tham gia Water Expo còn có Swing, một trong những công ty cấp nước hàng đầu của Nhật Bản và đã tham gia vào thị trường Việt Nam. Với triết lý đề cao sự hiệu quả, Swing đã giới thiệu những hệ thống tái chế có tên “Bitrec” Bio Cycle Treatment and Co-Generation System, Hệ thống sinh khối bùn, Hệ thống lên men mê-tan và công nghệ phục hồi phốt-pho.







Một công ty Nhật Bản khác có mặt ở Water Week là Kobelco Eco-Solutions Co, giới thiệu giải pháp tổng thể về cung cấp nước cho sản xuất nước công nghiệp.

Công ty đã kết hợp hệ thống khử muối để trích xuất nước ngọt từ nước biển, sử dụng công nghệ RO cho quá trình khử mặn và tái sử dụng nước thải. Các nghiên cứu được thực hiện trong dự án hợp tác với đại học Yamaguchi, Toray, Hitachi Plant Technology và KOBELCO

Tại Việt Nam, Kobelco Eco-Solutions đã đầu tư vào Khu công nghiệp Long Đức, cung cấp công nghệ và thiếu bị cho nhà máy xử lý nước Loteco, có thể xử lý 4.000 tấn nước thải mỗi giờ. Công ty cũng cung cấp hệ thống xử lý nước thải cho nhà máy thép Pomina cũng như nhiều công ty khác.









Các bệnh viện thiếu hệ thống xử lý nước thải: Không muốn làm chứ không thiếu tiền!
Ngày: 07/07/2012
Bốn bệnh viện trung ương tại TP.HCM nằm trong danh sách gây ô nhiễm môi trường của sở Y tế thành phố vì chưa có hệ thống xử lý nước thải (HTXLNT) đạt tiêu chuẩn, xả thẳng ra môi trường từ nhiều năm nay. Họ viện lý do “không có tiền xây dựng HTXLNT ”.

Bệnh viện Bệnh nhiệt đới TP.HCM có hệ thống xử lý nước thải đạt chuẩn. Ảnh: Phan Sơn

Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng vấn đề là các cơ sở y tế có muốn làm hay không, chứ không phải là vấn đề tiền.
Lý do cũ rích
Bệnh viện Giao thông vận tải TP.HCM thuộc cục Y tế giao thông vận tải (72/3 Trần Quốc Toản, phường 8, quận 3) nhiều năm nay nước thải không được lắng lọc, diệt khuẩn mà xả thẳng ra ống cống sinh hoạt chung của khu dân cư. Bác sĩ Đỗ Công Huân, giám đốc bệnh viện này cho biết, bệnh viện vốn là nhà ở của dân từ năm 1976 nên không có HTXLNT. Tuy nhiên, ông cho rằng do bệnh viện “không đủ tiền để tự đầu tư HTXLNT”. Ông Huân cũng cho biết, bệnh viện đã xây dựng đề án khu xử lý nước thải nhưng từ năm 2007 đến nay xin kinh phí từ cấp trên chưa được.
Tương tự, tại các bệnh viện Điều dưỡng và phục hồi chức năng Bưu điện 2, bệnh viện Bưu điện 2 và trung tâm Chỉnh hình – phục hồi chức năng thuộc bộ Lao động – thương binh và xã hội cũng kêu khó, vì không có kinh phí để xây dựng HTXLNT.
Sở Y tế TP.HCM bị “chỉnh” ngược
Trong sáu bệnh viện xả nước thải không đạt chuẩn ra môi trường trong danh sách của sở Y tế TP.HCM có viện Vệ sinh y tế công cộng và viện Pasteur. Đây là hai cơ sở y tế có nhiệm vụ kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh cho các tỉnh phía Nam, nhưng lại bị liệt vào danh sách có nguồn xả thải gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng tới tầng nước ngầm và sức khoẻ của người dân thành phố!
Một hệ thống xử lý nước thải bệnh viện mẫu mực
Do Liên minh châu Âu (EU) tài trợ, từ khi hoạt động vào tháng 3.2004 đến nay, HTXLNT bệnh viện Bệnh nhiệt đới TP.HCM với công suất xử lý 500m3/ngày đêm luôn vận hành tốt và đạt chuẩn. Theo ThS.BS Đinh Nguyễn Huy Mẫn, trưởng khoa kiểm soát nhiễm khuẩn, trước khi chảy ra cống thải của thành phố, nước thải bệnh viện được xử lý bằng công nghệ sinh học + hoá chất và đạt chuẩn QCVN 28. Cứ định kỳ mỗi sáu tháng, bệnh viện đều lấy mẫu nước thải sau xử lý để mang đi xét nghiệm ở một đơn vị độc lập, rồi gửi báo cáo lên cơ quan chức năng. Ph.S
Giải thích về vấn đề này, ông Nguyễn Văn Hải, phó viện trưởng viện Pasteur, nói năm nào cũng nhận được văn bản yêu cầu giải trình của bộ Y tế về việc không đủ tiêu chuẩn về nước thải y tế, trong khi sở Y tế TP.HCM không bao giờ đến viện khảo sát, lấy mẫu về thử. Do đó, ông Hải “chỉnh ngược” sở Y tế là nên xem lại cách làm việc của mình bởi HTXLNT của viện Pasteur đưa vào sử dụng năm 2007 với công suất 200m3/ngày đêm. Và cuối năm 2011, sở Tài nguyên và môi trường xuống đánh giá, đo đạc đều nằm trong giới hạn cho phép của tiêu chuẩn môi trường.
Vấn đề là có làm hay không
Qua kết quả khảo sát thực tế về thực trạng xử lý nước thải của 12 bệnh viện phía Nam của viện Vệ sinh Y tế công cộng TP.HCM cho thấy, nước thải bệnh viện ngoài các chất ô nhiễm như: hữu cơ, dầu mỡ động thực vật, vi khuẩn thì có thể có thêm một số chất gây ô nhiễm đặc thù như các phế phẩm thuốc, các dung môi hoá học, các chất tẩy rửa ở nhà giặt, và đặc biệt là dư lượng thuốc kháng sinh. Tuy nhiên, hiện nay các chất này chưa được đưa vào danh mục các thông số cần phải kiểm tra trong TCVN 7382:2004 nước thải bệnh viện.
Nói về tình trạng nước thải bệnh viện gây ô nhiễm, ông Đặng Văn Khoa, chủ tịch hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường TP.HCM, nguyên đại biểu HĐND TP.HCM khoá VII, nói: “Đây là một việc rất cũ, từng nóng bỏng tại nghị trường các kỳ họp HĐND TP.HCM từ 5 – 7 năm trước”. Thực tế ai cũng thấy rõ nước thải y tế nguy hại như thế nào, gây ô nhiễm ra sao. Đây cũng là việc không quá khó giải quyết bởi đây là những dự án có quy mô vừa tầm, vừa sức của các cơ sở y tế. Chính vì vậy , ông Khoa nói: “Vấn đề ở đây là trách nhiệm của các cơ sở y tế, tức họ có muốn làm hay không mà thôi, chứ không phải là vấn đề không có tiền hay không đủ sức làm”.
“Nói thẳng, các cơ sở y tế cố tình kéo dài chừng nào thì đỡ tốn chi phí chừng đó. Do đó, những cơ sở y tế nào trì trệ, né tránh, viện dẫn lý do để nguỵ biện… thì không thể chấp nhận được và thiếu trách nhiệm với người dân. Đây cũng không phải lúc động viên mà cần rút giấy phép kinh doanh, đồng thời phải xử phạt nghiêm”, ông Khoa nhấn mạnh.
Trong một diễn biến liên quan, UBND TP.HCM vừa chấp thuận chủ trương cho phép các chủ đầu tư là bệnh viện Nguyễn Tri Phương, Chấn thương chỉnh hình, Nhân dân Gia Định, Cấp cứu Trưng Vương, Nhi Đồng 2, Bình Dân, và Tâm thần được tổ chức đấu thầu, để lựa chọn nhà thầu thi công và tổ chức thi công theo hình thức đơn vị thi công sẽ ứng vốn thực hiện dự án. Theo UBND TP.HCM, dự án đầu tư xây dựng HTXLNT của các bệnh viện là các dự án mang tính cấp bách cần phải thực hiện và hoàn thành trong năm 2012.
(Theo SGTT)

Thứ Sáu, 22 tháng 6, 2012


Quy hoạch tổng thể hệ thống xử lý chất thải rắn y tế nguy hại đến năm 2025
6/21/12 4:20 PM
Ngày 08/02/2012, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 170/QĐ-TTg về việc “Phê duyệt Quy hoạch tổng thể hệ thống xử lý chất thải rắn y tế nguy hại đến năm 2025”. Thực hiện nhiệm vụ của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế tổ chức lập Quy hoạch tổng thể hệ thống xử lý chất thải rắn y tế nguy hại đến năm 2025. Cổng thông tin Bộ Xây dựng xin đăng nội dung cơ bản quyết định này.
1. Phạm vi quy hoạch: Quy hoạch tổng thể hệ thống xử lý chất thải rắn y tế nguy hại được thực hiện trên phạm vi toàn quốc.
2. Đối tượng quy hoạch: Chất thải rắn y tế nguy hại (không bao gồm chất thải phóng xạ và chất thải từ cơ sở sản xuất dược phẩm).
3. Quan điểm quy hoạch: Phù hợp với Chiến lược quốc gia về quản lý chất thải rắn đến năm 2025 và tầm nhìn đến 2050, Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 tầm nhìn đến 2020 và Quy hoạch mạng lưới khám chữa bệnh đến năm 2010 tầm nhìn đến năm 2020;
Gắn với quy hoạch khu xử lý chất thải rắn vùng liên tỉnh, vùng tỉnh đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
Bảo đảm tập trung thu gom, cô lập, giảm thiểu chất thải rắn y tế nguy hại tại nguồn và xử lý triệt để nhằm đảm bảo vệ sinh môi trường, tiết kiệm đất;
Áp dụng các công nghệ xử lý chất thải rắn y tế tiên tiến, thân thiện với môi trường và phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương.
4. Mục tiêu quy hoạch:
a) Mục tiêu tổng quát: Quy hoạch tổng thể hệ thống xử lý chất thải rắn y tế nguy hại nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chất thải rắn y tế nguy hại, cải thiện chất lượng môi trường, đảm bảo sức khỏe cộng đồng và góp phần vào sự nghiệp phát triển bền vững đất nước.
Các cơ sở xử lý chất thải rắn y tế nguy hại được đầu tư xây dựng phải gắn liền với các khu xử lý chất thải rắn vùng liên tỉnh, vùng tỉnh và tại các cơ sở y tế nhằm thu gom, xử lý triệt để bằng những công nghệ tiên tiến, phù hợp.
b) Mục tiêu cụ thể: Giai đoạn đến năm 2015: 100% lượng chất thải rắn y tế nguy hại tại các cơ sở y tế được thu gom, phân loại và vận chuyển đến các cơ sở xử lý, trong đó 70% lượng chất thải rắn y tế nguy hại được xử lý đảm bảo các tiêu chuẩn về môi trường.
Giai đoạn đến năm 2025: 100% lượng chất thải rắn y tế nguy hại tại các cơ sở y tế được thu gom, vận chuyển và xử lý đảm bảo các tiêu chuẩn về môi trường.
5. Nội dung quy hoạch:
a) Dự báo khối lượng chất thải rắn y tế nguy hại phát sinh: Căn cứ vào Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 tầm nhìn đến 2020; Quy hoạch mạng lưới khám chữa bệnh đến năm 2010 tầm nhìn đến năm 2020 và căn cứ vào các số liệu thống kê hàng năm, các nghiên cứu của Việt Nam và thế giới - Dự báo lượng chất thải rắn y tế nguy hại phát sinh trên địa bàn cả nước như sau (xem bảng).
b) Công nghệ xử lý chất thải rắn y tế nguy hại: Công nghệ xử lý chất thải rắn y tế nguy hại bao gồm công nghệ đốt và không đốt.
Công nghệ đốt: Ưu điểm với nhiệt độ cao thì chất thải rắn y tế nguy hại được xử lý triệt để, loại trừ được các mầm bệnh trong các chất thải lây nhiễm, giảm tối đa thể tích chôn lấp sau khi xử lý. Tuy nhiên đốt ở nhiệt độ không đủ theo quy định có thể phát sinh khí thải gây ô nhiễm không khí; chi phí đầu tư xây dựng và quản lý vận hành cao.
Công nghệ không đốt: Ưu điểm là chi phí đầu tư xây dựng và chi phí vận hành tương đối thấp. Tuy nhiên sử dụng công nghệ này không loại trừ hoàn toàn các mầm bệnh tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm, không giảm được thể tích rác cần chôn lấp sau khi xử lý…
Tiêu chí lựa chọn áp dụng công nghệ xử lý: Để xử lý triệt để lượng chất thải rắn y tế nguy hại phát sinh đồng thời phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa phương. Lựa chọn công nghệ xử lý (đốt hay không đốt) dựa vào các tiêu chí như sau:
Thành phần, tính chất chất thải rắn y tế nguy hại; Khả năng phân loại, cô lập chất thải rắn y tế tại nguồn thải; Khối lượng chất thải rắn y tế nguy hại cần xử lý; Vị trí đặt cơ sở xử lý chất thải rắn y tế nguy hại; Khả năng tài chính và khả năng quản lý vận hành của từng địa phương.
c) Mô hình xử lý chất thải rắn y tế nguy hại: Trên cơ sở công tác quản lý chất thải rắn y tế nguy hại đề xuất 3 mô hình xử lý chất thải rắn y tế nguy hại như sau:
Mô hình xử lý tập trung: Các chất thải rắn y tế nguy hại được xử lý tập trung tại cơ sở xử lý chất thải y tế nguy hại được xây dựng trong các khu xử lý chất thải rắn vùng liên tỉnh hoặc vùng tỉnh;
Mô hình xử lý theo cụm bệnh viện: Các chất thải rắn y tế nguy hại của các bệnh viện có khoảng cách vận chuyển hợp lý được xử lý tại cơ sở xử lý chất thải rắn y tế nguy hại đặt tại bệnh viện nằm ở trung tâm cụm bệnh viện;
Mô hình xử lý tại các cơ sở y tế: Chất thải y tế nguy hại được xử lý ngay tại cơ sở y tế có công nghệ xử lý phù hợp đảm bảo các quy chuẩn về vệ sinh môi trường.
Tiêu chí lựa chọn mô hình xử lý chất thải rắn y tế nguy hại: Để lựa chọn mô hình xử lý chất thải rắn y tế nguy hại phù hợp cho từng địa phương, đề xuất 6 tiêu chí như sau:
Mức độ phát sinh tập trung chất thải rắn y tế nguy hại; Khối lượng chất thải rắn y tế nguy hại phát sinh; Hiện trạng cơ sở xử lý chất thải rắn; Mức độ thuận tiện trong việc thu gom, vận chuyển; Định hướng quy hoạch xử lý chất thải rắn; Năng lực về tài chính.
d) Quy hoạch cơ sở xử lý chất thải rắn y tế nguy hại: Vùng đồng bằng sông Hồng (bao gồm vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ)
Vùng đồng bằng sông Hồng bao gồm 11 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình.
Giai đoạn đến năm 2015: Có 9 tỉnh/thành phố áp dụng mô hình xử lý tập trung, riêng tỉnh Hà Nam và Bắc Ninh áp dụng mô hình xử lý theo cụm bệnh viện;
Giai đoạn đến năm 2025: Toàn bộ 11 tỉnh/thành phố áp dụng mô hình xử lý tập trung.
Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ: Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ bao gồm 14 tỉnh/thành phố: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La và Hòa Bình.
Giai đoạn đến năm 2015: Áp dụng mô hình xử lý theo cụm bệnh viện cho 13 tỉnh, riêng tỉnh Lai Châu áp dụng mô hình xử lý tại chỗ; Giai đoạn đến năm 2025: Áp dụng mô hình xử lý tập trung cho toàn bộ các tỉnh/thành phố.
Vùng Trung Bộ (bao gồm vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Nam Trung bộ.
Vùng Trung bộ bao gồm 14 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận.
Giai đoạn đến năm 2015: Áp dụng mô hình xử lý tập trung cho 6 tỉnh (Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Bình Định và Khánh Hòa), 8 tỉnh còn lại áp dụng mô hình xử lý theo cụm; Giai đoạn đến năm 2025: Áp dụng mô hình xử lý tập trung cho toàn bộ các tỉnh/thành phố.
Vùng Tây Nguyên: Vùng Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương: Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Kon Tum và Đắk Nông.
Giai đoạn đến năm 2015: Áp dụng mô hình xử lý tại chỗ; Giai đoạn đến năm 2025: Áp dụng mô hình xử lý tập trung tại 3 tỉnh: Gia Lai, Đắk Lắk và Lâm Đồng, riêng 2 tỉnh: Kon Tum và Đắk Nông tiếp tục áp dụng mô hình xử lý theo cụm.
Vùng Đông Nam bộ (bao gồm vùng kinh tế trọng điểm phía Nam): Vùng Đông Nam bộ bao gồm 6 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương: Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và TP.HCM.
Giai đoạn đến năm 2015: Áp dụng mô hình xử lý tập trung tại 4 tỉnh/thành phố: Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và TP.HCM, riêng hai tỉnh: Bình Phước và Tây Ninh áp dụng mô hình theo cụm; Giai đoạn đến năm 2025: Áp dụng mô hình xử lý tập trung cho toàn bộ 6 tỉnh.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long: Vùng đồng bằng sông Cửu Long bao gồm 13 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau.
Giai đoạn đến năm 2015: Áp dụng mô hình xử lý theo cụm cho 11 tỉnh: Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau; riêng hai tỉnh: Long An và Cần Thơ áp dụng theo mô hình xử lý tập trung; Giai đoạn đến năm 2025: Áp dụng mô hình xử lý tập trung cho toàn bộ các tỉnh/thành phố.
6. Phân kỳ đầu tư
a) Giai đoạn 1 (2011 - 2015): Triển khai các dự án về thu gom, phân loại, giảm thiểu và lưu giữ chất thải rắn y tế nguy hại tại các cơ sở khám chữa bệnh đảm bảo các quy định theo Quy chế quản lý chất thải rắn y tế nguy hại của Bộ Y tế; Triển khai các dự án cải tạo và nâng cấp các lò đốt chất thải rắn y tế hiện có; Triển khai các dự án cải tạo các lò thiêu đốt hiện có đặt tại các cơ sở y tế tuyến tỉnh, huyện đảm bảo các tiêu chuẩn môi trường; Triển khai các dự án đầu tư xây dựng cơ sở xử lý chất thải rắn y tế nguy hại tại các khu xử lý chất thải rắn vùng liên tỉnh (Hà Nội, TP.HCM, TT - Huế, Bình Định) hoặc vùng tỉnh (Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Hải Phòng…).
b) Giai đoạn 2 (2016 - 2020): Thực hiện các dự án xây dựng các cơ sở chất thải rắn y tế nguy hại tại các khu xử lý chất thải rắn vùng tỉnh trong giai đoạn 2 tại các tỉnh: Bắc Ninh, Hà Nam, Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ, Sơn La, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Thuận, Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Tiền Giang, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Cà Mau…; Nâng công suất các công trình xử lý chất thải rắn y tế nguy hại đã triển khai trong giai đoạn 1 đến công suất thiết kế trong giai đoạn 2; Triển khai lắp đặt các công trình xử lý chất thải rắn y tế nguy hại tại các khu vực dự kiến áp dụng mô hình theo cụm theo hướng sử dụng công nghệ không gây phát sinh ô nhiễm sau xử lý; Triển khai dự án lắp đặt các công trình xử lý chất thải rắn y tế nguy hại tại các cơ sở y tế áp dụng mô hình xử lý tại chỗ theo hướng áp dụng công nghệ hiện đại, dễ vận hành và thân thiện môi trường; Triển khai các dự án về đào tạo nhân lực quản lý và xử lý chất thải rắn y tế nguy hại cho các cơ sở y tế và các đơn vị thực hiện việc quản lý và xử lý chất thải rắn y tế nguy hại tại địa phương giai đoạn 1.
c) Giai đoạn 3 (2021 - 2025): Triển khai các dự án về đào tạo nhân lực quản lý và xử lý chất thải rắn y tế nguy hại cho các cơ sở y tế và các đơn vị thực hiện việc quản lý và xử lý chất thải rắn y tế nguy hại tại địa phương giai đoạn 2; Thực hiện và hoàn thiện các dự án đầu tư xây dựng và lắp đặt công trình xử lý chất thải rắn y tế nguy hại tại các khu xử lý chất thải rắn vùng liên tỉnh hoặc vùng tỉnh; Triển khai lắp đặt các công trình xử lý chất thải rắn y tế nguy hại tại các khu vực dự kiến áp dụng mô hình xử lý theo cụm áp dụng công nghệ không gây phát sinh ô nhiễm sau xử lý; Triển khai dự án lắp đặt các công trình xử lý chất thải rắn y tế nguy hại tại các cơ sở y tế áp dụng mô hình xử lý tại chỗ theo hướng áp dụng công nghệ hiện đại, dễ vận hành và thân thiện môi trường.
7. Nguồn vốn đầu tư: Nguồn vốn để đầu tư xây dựng, cải tạo và nâng cấp cơ sở xử lý chất thải rắn y tế nguy hại và các công trình phụ trợ bao gồm:
Nguồn vốn ngân sách; Nguồn vốn ODA, vốn tài trợ nước ngoài; Nguồn vốn vay dài hạn; Vốn từ các nhà đầu tư trong, ngoài nước; Các nguồn vốn hợp pháp khác.
8. Đánh giá môi trường chiến lược:
a) Các tác động tiêu cực có thể xảy ra bao gồm: Nhiễm khuẩn: Các loại vi sinh vật, vi khuẩn, nấm, virus là nguyên nhân gây ra các bệnh như viêm gan A, B, C… hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (HIV/AIDS), viêm màng não…;
Độc tính nguy hại do hóa chất có thể gây ngộ độc qua da, niêm mạc, hít hay ăn phải hoặc gây thương tích như bỏng. Ảnh hưởng gián tiếp các yếu tố nguy hại này xảy ra do nhiễm độc nước ngầm khi các chất này được quản lý và xử lý không tốt;
Độc di truyền: Các chất độc có đặc tính gây đột biến gen, gây hư hại ADN, gây quái thai hoặc gây ung thư;
Khí thải bị ô nhiễm thải ra môi trường khi nhiệt độ lò đốt rác không đạt nhiệt độ theo quy định, quá trình đốt sẽ sinh ra các khí độc mà khí này được thải ra môi trường.
Vật sắc nhọn: Ngoài sự nguy hại về yếu tố vật lý liên quan đến các vật sắc nhọn, các mẫu nuôi cấy tập trung các mầm bệnh và các vật rắn nhiễm khuẩn, là chất thải có tính nguy hại tiềm tàng với sức khỏe con người.
b) Các biện pháp giảm thiểu tác động tới môi trường: Để giảm thiểu ô nhiễm môi trường và đề phòng sự cố môi trường dự án sẽ thực hiện các giải pháp:
Giải pháp chung: Các cơ sở xử lý chất thải rắn y tế nguy hại phải đảm bảo khoảng cách cách ly an toàn theo quy chuẩn; Bố trí các công trình trong cơ sở xử lý đảm bảo về mặt kỹ thuật, cảnh quan và thuận lợi trong việc khắc phục khi xảy ra sự cố; Bố trí diện tích cây xanh theo đúng quy chuẩn xây dựng Việt Nam.
Giải pháp kỹ thuật: Phổ biến quy định về an toàn lao động, an toàn phòng chống cháy nổ, quy trình vận hành máy móc thiết bị, cung cấp đầy đủ trang thiết bị bảo hộ lao động bắt buộc công nhân phải sử dụng; Lắp đặt các thiết bị giảm ồn cho các máy móc có mức ồn cao; Thu gom vận chuyển phải tuân thủ theo quy chế quản lý chất thải rắn y tế nguy hại; Thường xuyên kiểm soát hệ sinh thái trong khu vực để đánh giá mức độ ảnh hưởng đến môi trường; Các biện pháp phòng ngừa sự cố môi trường; Các biện pháp hỗ trợ khác.
Chương trình quản lý và giám sát môi trường: Chương trình quan trắc chất lượng môi trường không khí; Chương trình quan trắc chất lượng môi trường nước mặt, nước ngầm; Chương trình quan trắc chất lượng môi trường đất.

Thứ Ba, 29 tháng 5, 2012


Lợi ích nhóm từ kẽ hở của Luật Đấu thầu

29/05/2012 11:01

Ông Vũ Khoa
Kết luận Thanh tra Chính phủ số 1039 công bố về trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ KH&ĐT trong thực hiện Luật Đấu thầu, trong đó chỉ ra sai phạm hàng loạt tại các dự án chỉ định thầu. Ngày 24/5 vừa qua, Hiệp hội Nhà thầu Xây dựng Việt Nam (VACC) có cuộc gặp gỡ báo chí trao đổi ý kiến về Luật Đấu thầu và chỉ định thầu. PV Báo Xây dựng có cuộc phỏng vấn ông Vũ Khoa - Chủ tịch VACC xoay quanh kết luận này và đề xuất kiến nghị mới cho Luật Đấu thầu sửa đổi đang được soạn thảo trình Quốc hội.
Ông có ý kiến gì sau khi Thanh tra Chính phủ công bố kết luận về trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ KH&ĐT trong thực hiện Luật Đấu thầu được dư luận rất quan tâm trong thời gian qua?
- Trong kết luận này chưa nói đến trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ KH&ĐT, mà tôi thấy nổi cộm nên vấn đề lớn. Đó là chỉ định thầu, và tất nhiên là chỉ định thầu không đúng với luật pháp. Thanh tra Chính phủ nêu ra một loạt sai phạm tại các địa phương như Ninh Bình, Nghệ An, Phú Thọ, Hưng Yên, Bộ GTVT… Luật Đấu thầu nói rõ những trường hợp chỉ định thầu là trường hợp nào? Đó là các công trình dự án mang đặc điểm: có sự bất khả kháng, gói thầu do nước ngoài tài trợ, gói thầu mang bí mật, ý nghĩa kinh tế quốc gia, gói thầu mua sắm mở rộng trang thiết bị có trong hạn mục do Thủ tướng phê duyệt. Thực tiễn thì những dự án như đường giao thông nông thôn, như tượng đài, khu du lịch sinh thái, trụ sở UBND tỉnh… thì chả có gì là cấp bách, hay bí mật quốc gia nhưng lại được chỉ định thầu tràn lan, giá trị lên đến ngàn tỷ. Đáng nói là đơn vị trúng thầu là một số doanh nghiệp giàu có và thế lực. Lợi ích nhóm xuất phát từ kẽ hở của Luật, dư luận đặt câu hỏi lợi ích nhóm ở đây là có căn cứ.
Theo ông, hậu quả của việc sai luật thế nào? và ảnh hướng đến các nhà thầu khác ra sao?
-Việc chấp hành Luật không nghiêm, kết luận của Thanh tra Chính phủ cũng chỉ thông báo tên dự án, giải ngân, tiến độ chậm… rồi kiến nghị tổ chức kiểm điểm, rút kinh nghiệm đối với cơ quan, đơn vị có liên quan đến khuyết điểm. Có những đơn vị nói thẳng rằng chúng tôi chả phải đấu thầu, toàn được chỉ định thầu. Theo pháp luật thì bất cứ ai sai luật cũng phải chịu trách nhiệm chứ, vi phạm luật pháp phải ra tòa chứ, không thực hiện cũng không sao thế này thì Luật để làm gì? Liên quan đến giao thầu, là có cơ chế xin cho - chỉ định thầu là món ngon, có tham nhũng, kém minh bạch. Không ra tòa mà chỉ kiểm điểm rút kinh nghiệm thì rõ ràng người ta sẽ lợi dụng Luật nhiều hơn. Đây là thiệt thòi lớn cho các nhà thầu khác, khi họ có đủ năng lực mà không có cơ hội đấu thầu. Điều này cũng có nghĩa là nhiều công trình bị chiếm dụng vốn và kém chất lượng, thất thoát ngân sách nhà nước và tâm lý ức chế cho xã hội.

Khu du lịch sinh thái Tràng An - Ninh Bình.
Thưa ông, đâu là nguyên nhân cốt lõi mà chủ đầu tư và nhà thầu thích chỉ định thầu hơn đấu thầu?
- Thứ nhất là do năng lực cạnh tranh của nhiều nhà thầu yếu, chỉ có thể có được công trình thông qua chỉ định thầu. Thứ hai, khi chỉ định thầu, giá gói thầu không phải trọn gói mà người ta sẽ điều chỉnh suốt trong thời gian thi công. Thông thường, các gói thầu được chỉ định bao giờ cũng đưa ra mức rất thấp để “chào hàng”, sau đó, nhiều dự án được điều chỉnh tăng mức tổng đầu tư lên gấp đôi, thậm chí gấp 3 lần giá trị ban đầu. Và nguyên nhân thứ 3 là lợi ích của các bên chỉ định thầu sẽ tốt hơn đấu thầu vì việc tăng giá trị gói thầu sẽ có lợi cho cả 2 bên.
Chính phủ và Quốc hội đang có lộ trình sửa đổi một số luật trong đó có Luật Đấu thầu. Liên quan đến những hạn chế như vừa trao đổi, ông có kiến nghị gì?
- Tôi nghĩ, cần làm rõ quyền hạn của Thủ tướng trong việc phê duyệt các dự án chỉ định thầu, Thủ tướng phải báo cáo Quốc hội về việc Chỉ định thầu để Quốc hội giám sát, xem việc đó đúng hay sai, xử lý thế nào, trách nhiệm của cơ quan đơn vị, cá nhân trình ký, duyệt ký đến đâu? Các chủ đầu tư phải có thông báo, đăng công khai trên phương tiện thông tin đại chúng để tăng cường công tác giám sát, các cơ quan quản lý, cơ quan độc lập giám sát, các nhà thầu giám sát lẫn nhau.
Trân trọng cảm ơn ông.
Ông Dương Văn Cận - Tổng Thư ký Hiệp hội Nhà thầu Xây dựng Việt Nam kiến nghị: Giảm bớt quy trình đấu thầu
“Cần phải giảm bớt quy trình đấu thầu để các chủ đầu tư không còn vin vào lý do đấu thầu nhiêu khê; hoàn thiện những quy định của pháp luật, triển khai thực hiện luật nghiêm túc, không để những kẽ hở trong Luật Đấu thầu bị lợi dụng như xác định rõ hơn thế nào là gói thầu thuộc dự án cấp bách, vì lợi ích dự án quốc gia; Đặc biệt, cần giảm bớt tình trạng chỉ định thầu đối với các công trình dùng ngân sách nhà nước. Trong những trường hợp đặc biệt áp dụng hình thức chỉ định thầu cần phải có cơ chế báo cáo, giám sát chặt chẽ; cần có chế tài xử phạt đối với các vi phạm, quy trách nhiệm cụ thể cho các cấp quản lý, từ chủ đầu tư, các địa phương cho đến bộ ngành quản lý”.

Lối mở cho vật liệu xây không nung

29/05/2012 10:07
Trong một khoảng thời gian kéo dài hàng năm trời, DN sản xuất vật liệu xây không nung (VLXKN) nào may mắn lắm cũng chỉ đạt công suất chạy máy khoảng 50%. Làm ra mà không bán được thì cũng đồng nghĩa với… tự sát. DN bi quan và đứng bên bờ vực phá sản khi mất niềm tin từ việc phải chờ đợi quá lâu “cơ chế chính sách nền tảng” để kiến tạo thị trường.

“Nút thắt” tư tưởng lớn nhất trong khối sản xuất VLKN đã được gỡ bỏ.
Gặp nhiều trở ngại
“Nắng hạn gặp mưa rào”, cuối cùng thì Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 16/4/2012 về tăng cường sử dụng VLKN, hạn chế sử dụng gạch đất sét nung. Các hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật cũng đã được Bộ Xây dựng ban hành, từ đây lối mở để VLKN tiến quân vào các công trình sử dụng vốn ngân sách sẽ không còn trong tình trạng “cửa đóng then cài” như trước. Từ giờ phút này, chuyện sống còn của ngành VLKN hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò xúc tiến thương mại và quảng bá kích cầu sản phẩm của chính bản thân các DN.
Tính từ thời điểm Chỉ thị số 10 của Thủ tướng Chính phủ xuất hiện đến nay tuy mới hơn 1 tháng rưỡi nhưng chí ít “nút thắt” tư tưởng lớn nhất trong khối sản xuất VLKN đã được gỡ bỏ. Không chỉ vậy, khi tìm hiểu chỉ số tiêu thụ của các đại lý bán hàng VLKN sẽ thấy doanh số thương mại đang tiến triển rõ rệt. Tuy chưa có con số thống kê toàn diện vì khoảng thời gian còn quá ngắn, nhưng rõ ràng không thể phủ nhận một điều chính hệ thống cơ chế chính sách đã “thông tắc” cho một mảng sản xuất gần như đã bước vào ngưỡng cửa của việc bị bức tử một cách đau đớn!
Một thực tế buồn không thể phủ nhận là thời gian qua, mảng thị trường chính là VLXKN gặp rất nhiều trở ngại trên con đường xâm nhập vào đời sống xây dựng. Có thời điểm, tới 7 nhà máy cùng tồn tại trong tình trạng sản xuất cầm chừng, 1 nhà máy phải dừng hẳn sản xuất. Đáng nói là sự khủng khiếp ấy diễn ra trong bối cảnh có tới 15 nhà máy đã đầu tư, đang chuẩn bị khánh thành và khoảng gần 20 nhà máy nữa đang trong quá trình triển khai đầu tư xây dựng.
Điểm lại thực tế buồn này để thấy: Muốn vươn lên làm giàu bằng một mảng sản phẩm có thị trường rộng lớn cũng là điều hết sức nhọc nhằn! Theo ông Phạm Văn Bắc - Vụ phó Vụ VLXD, định hướng đến 2020, VLKN chiếm khoảng 30 - 40% VLXD! Con số thoạt nghe tưởng chừng khiêm tốn trước tiềm lực và khả năng trỗi dậy của các DN sản xuất VLXD Việt Nam, nhưng rõ ràng chặng đường để đạt được mục tiêu “khiêm tốn” đó cũng không hề dễ dàng.
Công trình Nhà nước đi trước
Có một câu chuyện minh chứng cho luận điểm này, đó là chuyện về dòng sản phẩm VLKN mang thương hiệu Secoin mà giờ cứ mỗi lần nhắc lại, ông chủ của Secoin vẫn cứ thấy ngậm ngùi: Để được cấp phép sử dụng gạch lát toàn bộ đường dạo quanh hồ Hoàn Kiếm, ông phải xin tới 19 giấy phép. Tưởng thế đã là đỉnh điểm của sự nhọc nhằn trong việc tìm đường khai thông cho VLKN nhưng hóa ra chưa phải, khi xin được “biếu không” gạch xây cho một dự án nhà ở cao tầng trong một KĐT nức tiếng thời điểm ấy nhằm gây tiếng vang cho VLXKN thì cũng bị chủ đầu tư thẳng thừng từ chối vì rất nhiều lý do có bắt nguồn từ công tác… quản lý nhà nước.
Giờ đây VLKN đã có một bầu không khí “dễ thở” hơn khi những khó khăn có tính chất “kiên cố” nhất đã bị hóa giải. Tuy nhiên, không phải đã hết những băn khoăn. Điều các DN sợ nhất chính là sức ì, là một “lối mòn” tư duy của những người đang nắm trong tay vận mệnh sống còn của họ. DN sản xuất VLKN quả là có đủ thứ lo lắng, họ sợ các kiến trúc sư, các kỹ sư kết cấu bấy lâu đã quen chỉ định dùng gạch nung cho công trình nên không chịu đổi mới, họ sợ một “dấu ấn nhận thức” cũ rích về sự hay ho của gạch đỏ đã ăn sâu vào máu không chỉ người dân mà cả giới kết cấu rất khó có thể thay đổi trong ngày một ngày hai, họ sợ một sự lười biếng không chịu cập nhật những thông tin mới của giới làm kỹ thuật khiến “rào cản” giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất về VLKN chậm được dỡ bỏ. Mà rào cản ấy cứ chậm dỡ bỏ ngày nào thì nguy cơ chết trên đống tài sản đã đầu tư của DN vẫn cứ lơ lửng trước mắt ngày đó.
Mối lo lắng này không phải không có cơ sở. Chẳng hạn như có một thời, khi rất nhiều công trình sử dụng vốn ngoài ngân sách như các công trình liên doanh, các khách sạn, các trụ sở của các tổ chức quốc tế coi việc ứng dụng vật liệu tiết kiệm năng lượng là chuyện bình thường thì các công trình sử dụng vốn ngân sách nhà nước phải rất lâu sau mới tập cách làm quen với những dòng sản phẩm mới này. Mà công trình nhà nước không sử dụng, chắc chắn người dân sẽ đặt câu hỏi nghi ngại: “Công trình nhà nước mà nhà nước còn không dùng, sao có thể khích lệ người dân dùng được?”
Với sản lượng VLKN hiện mới chỉ chiếm 8 - 8,5% tổng số vật liệu xây lên đến 31 - 33 tỷ viên, rõ ràng đó là một chỉ số quá khiêm tốn dù rằng từ cách đây gần chục năm về trước, nhiều nhà đầu tư đã nhìn thấy tiềm năng to lớn từ thị trường VLKN. Rõ ràng, từ việc “nhìn thấy” tới việc “thu lợi nhuận về” là một khoảng cách quá lớn. Hy vọng, sau Chỉ thị số 10, sẽ còn có những động thái tích cực và quyết liệt hơn nữa từ chính giới quản lý thị trường xây dựng để kích cầu tiêu thụ mạnh mẽ hơn nữa đối với dòng sản phẩm đầy ưu điểm và thân thiện với môi trường này.

Thứ Năm, 24 tháng 5, 2012


Bẫy thu nhập trung bình nhìn từ các nước ASEAN

Vấn đề đáng quan tâm nhất của nhiều nước ASEAN hiện nay là làm sao tránh được bẫy thu nhập trung bình để tiến lên hàng các nước có thu nhập cao. Điều kiện để tránh bẫy thu nhập trung bình là gì? Để trả lời câu hỏi này, bài viết nầy sẽ thử đua ra một khung phân tích về các yếu tố quy định sự phát triển của mỗi giai đoạn và so sánh tình trạng hiện nay của các nước ASEAN với kinh nghiệm của Hàn Quốc, một nước đã thành công trong việc vượt qua được bẫy thu nhập trung bình và trở thành nước có thu nhập cao vào cuối thập niên 1990.
Bài viết kết luận là đối với 4 nước ASEAN (Malaysia, Thailand, Philippines và Indonesia), tăng năng lực nghiên cứu và triển khai (R&D), nhấn mạnh chất lượng và sự tương thích của nguồn nhân lực, và tạo cơ chế để hình thành một khu vực tư nhân năng động là điều kiện cần thiết để tránh bẫy thu nhập trung bình. Đối với Việt Nam, một nước còn ở giai đoạn thu nhập trung bình thấp, cải cách thể chế và chính sách để tăng năng suất các yếu tố sản xuất như lao động, tư bản và đất đai là tối cần để tránh sự xuất hiện sớm của bẫy thu nhập trung bình.
Tuần Việt Nam xin giới thiệu nghiên cứu của Giáo sư Trần Văn Thọ (đại học Waseda, Tokyo) đã được đăng trên Thời đại mới số 24.
I. MỞ ĐẦU:
Nhìn từ trình độ phát triển, thế giới hiện nay có thể chia thành 4 nhóm: Nhóm 1 gồm những nước thu nhập thấp, đang trực diện với cái bẫy nghèo. Nhóm 2 gồm những nước đã đạt được trình độ phát triển trung bình từ rất lâu nhưng sau đó trì trệ cho đến ngày hôm nay. Nhiều nước ở châu Mỹ La tinh thuộc nhóm nầy. Nhóm thứ ba gồm những nước mới phát triển vài mươi năm nay và hiện nay đã đạt mức thu nhập trung bình. Ở Á châu, Trung Quốc và một số nước ASEAN thuộc nhóm nầy. Nhóm thứ tư gồm những nước tiên tiến, có thu nhập cao như Mỹ, Nhật, các nước Tây Âu, v,v...
Đáng chú ý là nhóm nước thứ hai đã chuyển sang giai đoạn trì trệ lâu dài sau khi đạt được mức thu nhập trung bình. Hiện tượng nầy gần đây được gọi là "Bẫy thu nhập trung bình" (Gill and Kharas 2007, Spence 2011,...). Từ kinh nghiệm nầy, điều quan tâm của nhiều người hiện nay là liệu các nước mới nổi như ASEAN có thể tránh bẫy thu nhập trung bình và bước vào quỹ đạo phát triển bền vững để trở thành những nước có thu nhập cao hay không. Đâu là những điều kiện để ASEAN tránh được bẫy thu nhập trung bình? Mục đích của bài viết nầy là thử tìm câu trả lời cho câu hỏi nầy.
Trong phần dưới đây, Tiết II sẽ đưa ra một khung phân tích bao gồm các thuật ngữ như giai đoạn phát triển, điểm chuyển hoán trên thị trường lao động, tăng trưởng dựa trên đầu vào, tăng trưởng dựa trên năng suất toàn yếu tố, lợi thế so sánh động và yếu tố thể chế. Tiết III bàn về giai đoạn phát triển hiện nay của các nước ASEAN, có so sánh với các nước Đông Á khác.
Dựa trên khung phân tích ở Tiết II, Tiết IV sẽ đánh giá khả năng vượt bẫy thu nhập trung bình của các nước ASEAN bằng cách thử so sánh tình trạng hiện nay của các nước đó với kinh nghiệm của Hàn Quốc, một nước đã thành công trong quá trình thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và phát triển thành nước tiên tiến. Tiết V sẽ bàn về trường hợp Việt Nam, một nước vừa đạt mức thu nhập trung bình thấp nhưng đang trực diện nhiều yếu tố bất ổn về cơ cấu. Nếu không cải cách triệt để, Việt Nam có thể rơi vào trường hợp mà tác giả gọi làsự xuất hiện sớm của bẫy thu nhập trung bình (an early appearance of a middle income trap). Cuối cùng, phần kết luận sẽ tóm tắt những vấn đề hiện nay của các nước ASEAN và đưa ra các đề án chính sách mà các nước ASEAN cần quan tâm để tránh được bẫy thu nhập trung bình.
II. KHUNG PHÂN TỪ LÝ LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN:
Khung khái niệm cơ bản của bài viết nầy bắt đầu bằng việc phân tích ba giai đoạn phát triển của một nền kinh tế (Hình 1). Điểm C trong hình chỉ giai đoạn đạt mức thu nhập trung bình. Một nước có thu nhập đầu người 500 USD nếu phát triển trung bình năm là 7% (không phải tốc độ GDP mà là tốc độ thu nhập đầu người) nghĩa là tăng gấp đôi thu nhập đầu người trong 10 năm, thì nước nầy cần bội tăng thu nhập 3 lần (cần 30 năm) để đạt mức 4.000 USD hoặc cần 40 năm để đạt 8.000 USD là những mức thuộc thu nhập trung bình cao (sẽ giải thích thêm ở Tiết III). Nếu thu nhập trung bình tăng mỗi năm 5% thì nước nầy cần từ 45 đến 60 năm mới đạt được mức thu nhập trung bình cao nói trên.
Như vậy chuyển từ một nước nghèo sang một nước có thu nhập trung bình là một quá trình phát triển kéo dài rất nhiều năm. Tuy nhiên, nếu quá trình phát triển bền vững tiếp tục thì từ mức thu nhập trung bình cao tiến lên mức thu nhập cao chỉ cần một khoảng thời gian ngắn. Quá trình nầy chỉ cần 15 năm nếu thu nhập đầu người tăng mỗi năm 5%. Đây là khoảng thời gian rất ngắn.Tuy nhiên, như nhiều người (Spence 2011:20 chẳng hạn) đã nhận định, quá trình đó ngắn nhưng rất khó khăn. Cái khó phải vượt qua chính là "bẫy thu nhập trung bình".
Để hiểu nội dung "bẫy thu nhập trung bình", ta phải phân tích tính chất của điểm chuyển hoán C trong Hình 1. Con đường chuyển dịch từ B sang C là một quá trình dài chuyển một nước từ nông sang công nghiệp, trong đó công nghiệp và dịch vụ ngày càng chiếm tỉ trọng lớn trong GDP và cơ cấu lao động có việc làm. Đó cũng là quá trình chuyển dịch cơ cấu lợi thế so sánh và nhiều mặt khác của nền kinh tế như thị trường lao động, thị trường vốn và trình độ công nghệ, kỹ thuật. Khi nền kinh tế đạt điểm C, điểm ghi mức thu nhập trung bình, chắc chắn sẽ gặp những vấn đề mới, những thách thức mới, vì nếu không thì sẽ không có vấn đề bẫy thu nhập trung bình. Vậy những vấn đề mới là gì? Từ những gợi ý của  kinh tế học phát triển ta có thể nêu một số giả thuyết như sau:
Thứ nhất, trong thị trường lao động, sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ dần dần thu hút hết lao động dư thừa ở nông thôn và trong nông nghiệp (điểm chuyển hoán lao động trong mô hình Lewis, 1954), tiền lương thực chất tăng theo. Trên đại thể điểm chuyển hoán Lewis trùng với (hoặc ở gần) điểm C trong Hình 1.[1]
Hình 1: Các giai đoạn phát triển của một nền kinh tế
AB: Xã hội truyền thống, chưa phát triển, trực diện với bẫy nghèo.
BC: Giai đoạn phát triển ban đầu, thoát khỏi bẫy nghèo, thị trường đang trên quá trình hình thành, C là mức thu nhập trung bình.
CD: Tiếp tục phát triển bền vững lên mức thu nhập cao (D).
CE: Trì trệ hoặc phát triển với tốc độ rất thấp, trực diện bẫy thu nhập trung bình.
Như vậy, từ điểm C, năng suất lao động phải cao hơn trươc để tương ứng với tiền lương thực chất bắt đầu tăng. Cũng từ điểm nầy, chất lượng lao động cũng phải cao hơn để kinh tế chuyển dịch từ cơ cấu có hàm lượng lao động giản đơn lên cơ cấu mà công nghiệp có hàm lượng lao động lành nghề, trình độ giáo dục cao. Nỗ lực về giáo dục, đào tạo phải lưu ý điểm nầy để cung cấp nguồn nhân lực thích đáng cho quá trình chuyển dịch lên nước có thu nhập cao.[2]
Thứ hai, giai đoạn đầu của quá trình phát triển (BC trong Hình 1) thường chủ yếu dựa vào đầu vào (input-driven), có đặc tính là dựa vào việc sử dụng nhiều lao động và vốn. Ở giai đoạn nầy phát triển với đặc tính đó là dễ hiểu, hợp logic và xem như không có vấn đề vì lao động đang dư thừa. Vốn thì khan hiếm nhưng cần đầu tư ban đầu nhiều cho việc xây dựng hạ tầng và các cơ sở sản xuất cho quá trình công nghiệp hóa, trong khi trình độ công nghệ, kỹ thuật còn thấp. Tuy nhiên từ điểm C để phát triển lên giai đoạn thu nhập cao, nền kinh tế cần các yếu tố về công nghệ, kỹ thuật, năng lực kinh doanh hơn và việc sử dụng tư bản phải hiệu suất hơn. Nói cách khác, tăng trưởng trong giai đọan mới phải dựa trên năng suất tổng hợp toàn yếu tố (total factor productivity -TFP).[3] Như vậy, điểm chuyển hoán giữa hai giai đoạn phát triển dựa trên đầu vào và phát triển dựa trên TFP gần như trùng hợp với điểm C trong Hình 1.
Thứ ba, trên thị trường thế giới, các nước có thu nhập trung bình ngày càng bị các nước đi sau đuổi theo nên dần dần mất lợi thế so sánh trong những ngành có hàm lượng lao động cao, nhất là lao động giản đơn. Để tiếp tục phát triển, các nước có thu nhập trung bình phải ngày càng cạnh tranh được trong những ngành dùng nhiều lao động kỹ năng cao, dùng nhiều công nghệ cao.
Các nước có thu nhập trung bình bị ép, bị cạnh tranh giữa một bên là các nước thu nhập thấp, nhân công rẻ, cạnh tranh mạnh trong các mặt hàng công nghiệp có hàm lượng lao động cao, và một bên là những nước có thu nhập cao, đang cạnh tranh mạnh trong các ngành luôn cách tân công nghệ. Nói cách khác, những nước có thu nhập trung bình phải thành công trong việc leo lên các bậc thang phát triển để đuổi theo các nước tiên tiến. Điều nầy cũng có nghĩa là cơ cấu lợi thế so sánh của các nước có thu nhập trung bình phải luôn thay đổi theo hướng tăng hàm lượng kỹ năng, công nghệ cao. Lợi thế so sánh động nầy chỉ trở thành hiện thực khi có nguồn lực về lao động, kỹ thuật, công nghệ và kinh doanh thích ứng.
Ba vấn đề kể trên liên quan nhau: Điểm chuyển hoán trong thị trường lao động và mô hình tăng trưởng dựa trên TFP là những điều kiện cần để duy trì năng lực cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế vì khả năng cạnh tranh ở giai đoạn nầy phải ngày càng dựa trên chất lượng cao hơn của lao động và nỗ lực cải tiến công nghệ để tăng hiệu quả phát triển.
Trong một nền kinh tế mở, nhất là trong thời đại toàn cầu hóa và khu vực hóa, không ngừng tăng năng lực cạnh tranh quốc tế là điều kiện tất yếu để phát triển bền vững. Điều nầy phản ảnh trong sự thay đổi năng động của cơ cấu xuất khẩu dần dần nghiêng về những mặt hàng có hàm lượng cao về kỹ năng và cách tân công nghệ. Điểm nầy có thể được minh họa bằng sự thay đổi trong chỉ số cạnh tranh quốc tế (international competitiveness index, ICI) của các ngành công nghiệp. Có nhiều cách tính toán ICI, cách tính đơn giản và dễ hiểu nhất là dùng thống kê xuất nhập khẩu của các hàng công nghiệp. Theo cách nầy, ICI (i) được định nghĩa như sau:
i  =  (X - M) / (X + M) trong đó X và M là giá trị xuất và nhập khẩu của một sản phẩm công nghiệp.
Quá trình phát triển của một ngành công nghiệp có thể được khảo sát qua sự thay đổi của chỉ số nầy. Khuynh hướng điển hình có thể được diễn tả bằng Hình 2. Ở giai đoạn đầu của qúa trình phát triển hầu như không có xuất khẩu và thị trường trong nước được cung cấp bởi nhập khẩu. Do đó lúc nầy ICI bằng trừ 1. Khi sản xuất trong nước tăng dần, chỉ số nầy sẽ tiến đến 0 (lúc nầy cả nhập và xuất khẩu đều bằng hoặc gần nhừ bằng 0, hoặc xuất và nhập khẩu gần như bằng nhau). Khi ngành công nghiệp nầy ngày càng tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, xuất khẩu tiếp tục tăng và nhập khẩu giảm, kết quả là ICI tiến đến số 1. Trong trường hợp có mậu dịch trong nội bộ ngành (intra-industry trade) dĩ nhiên ICI không tiến đến 1 mà duy trì ở mức gần 0 hoặc ở giữa 0 và 1. Trên thực tế, tùy theo ngành, tùy theo điều kiện cụ thể của mỗi nước, quá trình phát triển của một ngành công nghiệp có nhiều hình thái khác nhau, nhưng Hình 2 có thể biểu hiện những trường hợp phổ quát, điển hình nhất.
Sự phát triển bền vững của một nền kinh tế mở đòi hỏi phải thành công trong việc dịch chuyển từ ngành đang hoặc sắp mất lợi thế so sánh (ngành 1) sang ngành có hàm lượng kỹ năng cao hơn (ngành 2) và chuẩn bị điều kiện để chuyển sang ngành mới hơn (ngành 3) và cứ thế quá trình chuyển dần sang ngành 4, ngành 5, v.v.., những ngành ngày càng đòi hởi hàm lượng cách tân công nghệ cao hơn. Một nước thu nhập trung bình nếu thất bại trong việc chuyển dịch lợi thế so sánh vừa nói, chẳng hạn ngành 2 mất lợi thế so sánh ở thời điểm sớm hơn dự tưởng (thể hiện bằng đường điểm chấm của ngành 2 trong Hình 2) vì sự thay đổi nhanh trên thị trường quốc tế (do sự tham gia thị trường của nhiều nước có lao động rẻ hơn) và vì nước có thu nhập trung bình nầy không có khả năng phát triển các ngành mới hơn (Ngành 3). Trong trường hợp đó, "bẫy thu nhập trung bình" xuất hiện khi nước có thu nhập trung bình không liên tục đưa ra những lợi thế so sánh mới.
Đâu là những điều kiện để có chuyển dịch năng động trong lợi thế so sánh và tránh được bẫy thu nhập trung bình? Hai lãnh vực sau đây có lẽ quan trọng. Một là thời điểm thay đổi mục tiêu và tiêu điểm trong chiến lược phát triển, chính sách đầu tư cho hạ tầng và cho nguồn nhân lực theo hướng tương thích với việc phát triển các ngành công nghiệp dùng nhiều tri thức và công nghệ cao. Lãnh vực thứ hai là xây dựng một thể chế chất lượng cao nhằm phát triển, duy trì một khu vực tư nhân năng động luôn cách tân và nhạy bén với những thay đổi trên thị trường thế giới. Sau đây ta sẽ bàn thêm và chi tiết hơn về hai lãnh vực này.
Trong sự chuyển hướng chíến lược, đẫy mạnh giáo dục, nghiên cứu ứng dụng và triên khai, xây dựng cơ cấu hạ tầng chất lượng cao cần được nhấn mạnh để kinh tế có thể chuyển dịch lên nước thu nhập cao là giai đoạn cần có kỹ năng, tri thức, và công nghệ tiên tiến. Về việc xây dựng cơ cấu hạ tầng chất lượng cao, một ví dụ điển hình là bưu chính viễn thông, một lãnh vực đặc biệt có ý nghĩa quan trọng cho nền kinh tế tri thức. Như World Bank (2008: 36) nhấn mạnh, "bưu chính viễn thông đóng nhiều vai trò quan trọng trong cả hai khu vực công và tư. Ngành nầy có thể hỗ trợ giáo dục, thực hiện các nỗ lực minh bạch hóa chính sách, và phân phối dịch vụ của chính phủ. ... Bưu chính viễn thông giúp người dân tiếp cận với các dịch vụ về vốn, tiền tệ; giúp nhiều dịch vụ buôn bán được với thị trường thế giới, và nối kết công nghiệp trong nước với chuỗi cung ứng toàn cầu".
Liên quan đến việc chuyển hướng chiến lược, chính sách, trong những nước có thu nhập trung bình, có hai trường hợp đặc biệt cần được lưu ý. Một là trường hợp những nước giàu tài nguyên. Tại những nước nầy đã hình thành những nhóm lợi ích (vested interests) không có động cơ thay đổi hướng phát triển và thường ngăn cản sự chuyển hướng trong chiến lược phát triển. "Lời nguyền tài nguyên" (resource curse) là thuật ngữ để chỉ hiện tượng đó.[4] Để tránh "lời nguyền tài nguyên", các nước nầy cần có những người lãnh đạo mạnh, có đầu óc cấp tiến, có uy tín và bản lãnh chính trị đủ để chuẩn bị đưa nền kinh tế phát triển theo hướng mới.
Trường hợp thứ hai là những nước đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế theo thể chế xã hội chủ nghĩa sang kinh tế thị trường mà hiện nay tuy đã phát triển đến mức thu nhập trung bình nhưng vẫn còn bảo hộ các doanh nghiệp nhà nước và các nhóm lợi ích khác nên thị trường phát triển méo mó. Việc tiếp tục bảo hộ các nhóm lợi ích và không hoàn thiện cơ chế thị trường là những trở ngại trên đường phát triển bền vững, có hiệu suất. Trường hợp của Việt Nam sẽ được phân tích ở Tiết V.
Tiếp theo đây ta thử phân tích thế nào là thể chế chất lượng cao, một trong hai điều kiện để chuyển dịch lợi thế so sánh của một nước có thu nhập trung bình. Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển (BC trong Hình 1), hệ thống thể chế hoàn chỉnh, cao cấp nhưng phức tạp (sophisticated institutions) chưa cần thiết và năng lực để xây dựng một thể chế như vậy cũng chưa có. Với cấu tạo kinh tế lúc đó (tài nguyên nông nghiệp và nguồn lao động là chính), phương hướng phát triển khá rõ ràng nên việc hình thành chính sách, chiến lược phát triển tương đối dễ, đơn giản. Sự can thiệp mạnh của chính phủ vào thị trường, kể cả việc lập nhiều doanh nghiệp nhà nước nhiều khi cần thiết và chấp nhận được. Tính chất đơn giản, chất lượng thấp của một hệ thống thể chế như vậy cũng phù hợp với giai đoạn phát triển dựa trên đầu vào.
Tuy nhiên, để nền kinh tế phát triển bền vững và tiến lên nước có thu nhập cao, nước có thu nhập trung bình cần xây dựng một hệ thống thể chế khác, phức tạp hơn và có chất lượng cao hơn. Hệ thống thể chế chất lượng cao (high quality institutions), một thuật ngữ của Dani Rodrik (2007), có những nội dung chính sau: (1) tăng cường sự minh bạch (transparency), tăng khả năng dự đoán (predictability), và tăng năng lực quản lý nhà nước (governance) để vừa giảm sự bất xác định, giảm rủi ro đối với nhà đầu tư để họ mạnh dạn tiến vào những lãnh vực mới (do đó cơ cấu kinh tế mới chuyển dịch lên cao), vừa tránh tham nhũng và giảm chi phí giao dịch (transaction cost);
(2) có cơ chế thống quản doanh nghiệp (corporate governance) áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước. Cơ chế thống quản doanh nghiệp quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các thành viên liên quan (stakeholders), có cơ chế thưởng phạt những người lãnh đạo hoặc quản lý doanh nghiệp; (3) bảo đảm sự tham gia rộng rãi của nhiều tầng lớp dân chúng trong quá trình quyết định các chính sách; (4) có cơ chế hợp tác hữu hiệu giữa nhà nước, doanh nghiệp và giới nghiên cứu, trí thức trong việc hình thành chiến lược tăng năng lực cạnh tranh quốc tế, nhất là xác lập quan hệ minh bạch giữa nhà nước và doanh nghiệp.
Để xây dựng thể chế chất lượng cao, như Rodrik (2007) nhấn mạnh, cần một đội ngũ quan chức có năng lực và tinh thần trách nhiệm cao, một bộ máy hành chính hiệu suất. Thể chế chất lượng cao còn cần thiết để không ngừng cải thiện nguồn nhân lực nhằm chuyển dịch cơ cấu công nghiệp có kỹ năng cao, và liên tục tăng khả năng cạnh tranh quốc tế của khu vực tư nhân.
Như World Bank (2008:83) nhấn mạnh, khi trình độ phát triển còn cách xa các nước tiên tiến, nước nào cũng dễ nhận thấy chính sách, chiến lược cần có để phát triển, nhưng khi đã rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến thì nhà nước khó thấy con đường nên theo để tiếp tục phát triển. Do đó vai trò của khu vực tư nhân quan trọng hơn vì họ biết rõ thị trường hơn.
Tuy nhiên, như phân tích có sức  thuyết phục của Ohno (2010), vai trò của nhà nước vẫn còn quan trọng trong việc đưa ra các chính sách công nghiệp chủ động bổ sung cho tính năng động của khu vực tư nhân qua việc cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao và một cơ sở hạ tầng thích hợp. Vai trò của nhà nước còn quan trọng trong việc đưa ra các biện pháp khuyến khích doanh nghiệp tư nhân đầu tư nhiều hơn cho nghiên cứu và triển khai (R&D), một điều kiện để không ngừng cách tân công nghệ. Trong ý nghĩa đó, thể chế chất lượng cao vô cùng thiết yếu để đẩy mạnh tinh thần doanh nghiệp (entrepreneurship) và giảm phí tổn kinh doanh cho khu vực tư nhân.
Chúng ta đã bàn về những điểm chuyển hoán chung quanh cái bẫy có thể xảy ra của một nước có thu nhập trung bình. Những điểm chuyển hoán nầy có thể được tổng hợp thành 3 yếu tố: (a) Nỗ lực của nước thu nhập trung bình trong việc tăng chất lượng nguồn nhân lực và năng lực nghiên cứu và triển khai (R&D). Yếu tố nầy quan trọng vì tạo điều kiện để chuyển nền kinh tế từ giai đoạn dư thừa lao động sang giai đoạn thiếu lao động, đồng thời chuyển từ nền kinh tế tăng trưởng dựa trên đầu vào sang nền kinh tế tăng trưởng dựa trên TFP, đồng thời chuyển dịch cơ cấu công nghiệp và cơ cấu xuất khẩu theo hướng dùng nhiều kỹ năng và công nghệ cao. (b) Nỗ lực của nước thu nhập trung bình trong việc xây dựng thể chế chất lượng cao. Yếu tố nầy quan trọng trong việc tạo ra môi trường kinh doanh mới, kích thích khu vực tư nhân ngày càng hướng vào cách tân công nghệ. (c) Với hai yếu tố vừa kể, cơ cấu lợi thế so sánh sẽ thay đổi không ngừng và nhờ đó duy trì khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Trần Văn Thọ (Đại học Waseda, Tokyo)
Còn tiếp

[1] Điểm nầy có thể thấy từ kinh nghiệm của Nhật Bản hoặc Hàn Quốc. Trong trường hợp của Nhật chẳng hạn, điểm chuyển hoán Lewis xảy ra vào khoảng năm 1960 (xem Minami 1973) và lúc đó Nhật là nước có thu nhập trung bình cao.
[2] Một trong những tiền đề quan trọng trong mô hình Lewis là sự hoàn hảo hoặc gần như hoàn hảo của thị trường lao động. Nếu thị trường lao động kém phát triển hoặc bị méo mó (distortion), sẽ có hiện tượng thiếu lao động ở đô thị hoặc trong khu vực công nghiệp trong khi vẫn còn lao động dư thừa ở nông thôn.
[3] Sau khi Ngân hàng thế giới phát biểu bản báo cáo nổi tiếng (World Bank 1993) xem sự phát triển của 8 nước Đông Á là thần kỳ, Krugman (1994) có bài viết không tán thành và cho rằng phát triển của Đông Á không thể gọi là thần kỳ vì chủ yếu dựa trên đầu vào (input-driven), không phải trên TFP. Trên ý nghĩa đó, theo Krugman, phát triển của Đông Á có cùng tính chất với Liên Xô cũ nên kinh tế sớm muộn sẽ suy sụp vì quy luật giảm dần hiệu quả của đầu vào (decreasing returns of inputs).
Ý kiến nầy làm bùng nổ nhiều tranh luận về các mặt lý luận, lịch sử và thực chứng. Trong các tranh luận nầy, theo người viết bài nầy, ý kiến của giáo sư Yujiro Hayami là có sức thuyết phục nhất. Hayami (2000) cho thấy tăng trưởng của nền kinh tế ở giai đoạn đầu của quá trình phát triên thường dựa trên đầu vào nhưng dần dần chuyển qua TPF ở giai đoạn sau. Ý nầy rất hay, ít nhất về mặt lịch sử và lý luận, có thề dùng để hiểu ranh giới giữa hai giai đoạn phát triển thu nhập trung bình và thu nhập cao.
[4] Gần đây có nhiều nghiên cứu về hiện tượng nầy. Chẳng hạn, xem Coxhead (2007).