I. TỔNG QUAN VỀ NGUỒN NƯỚC MẶT
1. Tổng quan về nguồn nước mặt
1.1. Nhu cầu sử dụng nước sạch ở
Việt Nam
Nước
sạch là nhu cầu thiết yếu cho mọi sinh vật, đóng vai trò đặc biệt trong việc
điều hoà khí hậu và cho sự sống trên trái đất. Hàng ngày cơ thể con người cần 3
-10 lít nước cho các hoạt động sống, luợng nước này đi vào cơ thể qua con đường
thức ăn, nước uống để thực hiện các quá trình trao đổi chất và trao đổi năng
lượng, sau đó thải ra ngoài theo con đường bài tiết. Ngoài ra con người còn sử
dụng nuớc cho các hoạt động khác như tắm, rửa, sản xuất…
Nước
ta hiện nay nhu cầu sử dụng nước ngày càng tăng do sự phát triển dân số và mức sống ngày càng tăng. Tuỳ thuộc vào mức
sống của người dân và tuỳ từng vùng mà nhu cầu sử dụng nước là khác nhau, định
mức cấp nước cho dân đô thị là 150 L/người/ngày (qua điều tra, tại khu vực nội
thành Hà Nội, lượng nước tiêu thụ khoảng từ 150 đến 200 lít/người/ngày), cho
khu vực nông thôn (nói chung) là 40 – 70 L/người.ngày. Riêng khu vực các huyện
ngoại thành Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, mật độ dân cư đông đúc, dân trí cao,
kinh tế phát triển lượng nước tiêu thụ cho mỗi người dân đạt ≈ 150
lít/người/ngày.
Nguồn
nước cung cấp cho nước sinh hoạt ở nước ta chủ yếu là nguồn nước mặt được lấy
từ các sông hồ..., sau khi qua xử lý sẽ dẫn đến các hộ dân, các khu công nghiệp.
Hiện nay, hơn 60 % tổng công suất các trạm cấp nước tại các đô thị và khu công
nghiệp trên cả nước dùng nguồn nước mặt với tổng lượng nước khoảng 3 triệu m3/
ngày đêm. Con số này còn tăng lên nhiều trong những năm tới nhằm cung cấp cho
các đô thị và khu công nghiệp ngày càng mở rộng và phát triển.
Dự
kiến 50 năm nữa nuớc ta sẽ rơi vào tình trạng thiếu nước trầm trọng. Sự biến
đổi của khí hậu toàn cầu sẽ dẫn đến sự suy giảm của nguồn nuớc. Các kết quả
nghiên cứu gần đây ở việt Nam cho thấy tổng lượng nuớc mặt của nuớc ta vào năm 2025 chỉ bằng khoảng 96 %, đến năm
2070 xuống còn khoảng 90 % và năm 2100 con khoảng 86 % so với hiện nay. Với tốc
độ phát triển dân số như hiện nay thì đến 2025 lượng nước mặt tính bình quân
đầu nguời ở nứơc ta chỉ đạt khoảng 2.830 m3/người.năm. Tính cả luợng
nuớc từ bên ngoài chảy vào thì bình quân đạt 7.660 m3 người.năm.
Tài
nguyên nước tại Việt Nam
phân bố không đều giữa các vùng. Trên 60% nguồn nước tập trụng ở đồng bằng sông
Hồng (lưu vực sông Mê Kông) trong khi toàn phần lãnh thổ còn lại chỉ có gần 40%
lượng nuớc nhưng lại chiếm 80% dân số cả nước và trên 90% khối lượng hoạt động
sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Đặc biệt các địa phương vùng miền Đông Nam Bộ và lưu
vực Đồng Nai – Sài Gòn, lượng nước bình quân đầu người chỉ đạt khoảng 2.900 m3/người.năm,
bằng 28% so với mức trung bình của cả nước.
Bên
cạnh đó, tài nguyên nước của Việt Nam cũng phân bố không đều theo
thời gian trong năm và giữa các năm. Lượng nước trung bình trong 4 đến 5 tháng
mùa mưa chiếm khoảng 75 – 85% trong khi những tháng mùa khô (kéo dài đến 7 –
8 tháng) lại chỉ có khoảng 15 – 25%
lượng nước của cả năm.
Theo
đánh giá của các nhà nghiên cứu, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao không đi đôi
với việc làm tốt công tác bảo vệ môi trường đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực
tới tài nguyên nước ở nước ta. Tình trạng ô nhiễm nguồn nước mặt ngày càng tăng
về mức độ và quy mô, một số khu vực đồng bằng đã có biểu hiện ô nhiễm do các
chất hữu cơ khó phân huỷ và hàm lượng vi khuẩn cao. Các biểu hiện suy thoái,
cạn kiệt nguồn nước đang trở lên rõ rệt và phổ biến ở nuớc ta.
1.2. Đánh giá nguồn nước mặt của
Việt Nam
Nước
ta có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, trong đó phải kể tới các sông lớn, trong
đó có hệ thống sông Mê Kông, tiếp theo là hệ thống sông Hồng, Đồng Nai, sông
Mã, sông Cả, sông Hương, sông Thái Bình, sông Thu Bồn, …, với diện tích lưu vực
mỗi sông trên 10.00 km2, lưu lượng các sông chính vào khoảng 880 Km3/năm.
Lượng
mưa trung bình hàng năm 1960 mm, tạo ra nước tái tạo được khoảng 324 Km3/năm.
Mật
độ sông phân bố không đều, phụ thuộc vào điều kiện địa hình, khí hậu của từng
địa phương.
Nhìn
chung , các sông ở nước ta có trữ lượng lớn có khả năng cung cấp cho các đối
tượng dùng nứơc trước mắt và cho tương lai.Tuy nhiên để đảm bảo sử dụng nguồn
nước mặt đựơc lâu dài cần phải có chiến lược sử dụng hợp lý và bảo vệ nguồn
nước mặt do các tác động của con người gây ra.
Ngoài
nguồn nước mặt là các sông, hồ thì ở miền núi nguồn nước suối cũng đóng vai trò
quan trọng trong việc cung cấp cho người dân vùng cao. Nguồn nước suối có trứ
lượng nước và chất luợng nước thay đổi theo mùa. Mùa mưa nước có độ đục lớn,
chứa cặn và cũng chứa nhiều chất hữu cơ. Tuy vậy nhưng tính chất của cặn khác
nước sông. Cặn ở đây là cặn thô, dễ lắng đọng, thời gian lắng nhanh hơn nuớc
sông.
|
NHÀ MÁY NƯỚC DƯƠNG KINH-THỦY NGUYÊN - HẢI PHÒNG |
1.4. Đặc
điểm của các nguồn nước mặt
1.4.1. Nước sông
Chất lượng nước sông ở
Việ Nam thay đổi theo mùa và theo vùng địa lý. Do dòng chảy bào mòn bề mặt khu
vực tạo lên các chất trôi theo dòng chảy gồm cát, bùn, phù sa, ...
Nước sông có hàm luợng
cặn cao vào mùa mưa. Tổng lượng cặn do các sông đổ ra biển trung bình hằng năm
khoảng 200 – 250 triệu tấn, trong đó 90% đựơc tạo ra vào mùa lũ. Vào mùa lũ, độ
đục cao, hàm lượng cặn lớn và thay đổi theo từng thời kỳ. Độ đục cao nhất xuất
hiện trong tất cả các tháng của mùa lũ. Các tháng mùa cạn, khi các sông có vận
tốc dòng chảy nhỏ nhất thì nước có độ đục nhỏ nhất, đôi khi độ đục gần đạt tiêu
chuẩn nước sinh hoạt và ăn uống theo tiêu chuẩn cấp nước cho các đô thị.
Thành phần chính của
nước sông
-
Khoáng chất: Hàm lượng khoáng chất của các sông ở Việt Nam còn thấp ( 200 – 500 mg/L);
-
Độ pH: Nước ở các sông chính có độ kiềm trung tính (7 – 8);
-
Độ cứng: Nước thuộc nước mềm;
-
Hàm lượng các ion chính: Chủ yếu là các ion Ca2+, Mg2+, K+,
SO42-, CL-, HCO3-, ...
1.4.2.Nước hồ
Nước ta có nhiều hồ tự
nhiên như hồ Ba Bể, hồ Núi Cốc... và một số hồ nhân tạo để phục vụ việc tưới
tiêu cho nông nghiệp. Đặc biệt một số hồ có dung tich trữ nước lớn của các công
trình thuỷ điện Thác Bà, Hoà Bình, Sơn La ...
Nhìn chung các hồ tự
nhiên có trữ lượng nhỏ, chỉ một vài hồ lớn có khẳ năng cung cấp nước cho các
đối tượng vừa và nhỏ. Các hồ thuỷ điện có khả năng cung cấp cho các đối tượng
lớn.
Nước hồ có hàm lưọng cặn
nhỏ hơn nước sông vì đã được lắng tự nhiên và khá ổn định. Tuy nhiên hàm lượng
cặn cũng dao động theo mùa, mùa mưa có hàm lượng cặn lớn, mùa khô hàm lượng cặn
nhỏ, có hồ độ trong gần đảm bảo tiêu chuẩn độ trong của nước sinh hoạt và ăn
uống. Sự dao động về chất lượng nước thường xảy ra ở các vùng ven bờ và phụ
thuộc vào địa hình của vùng ven bờ. Vùng xa bờ và giữa hồ có chất lượng nước ổn
định hơn.
Nước hồ có độ màu cao do;
Rong, rêu, tảo. Hàm lưọng chất hữu cơ trong hồ thường cao do xác động thực vật
ở quanh hồ gây nên.
Nhìn chung chất lượng
nước hồ tốt, dây chuyền công nghệ xử lý nước có thể đơn giản hơn công nghệ xử
lý nước sông, lượng hoá chất dùng để keo tụ ít, do vậy giá thành xử lý nuớc hồ
thường rẻ hơn nước sông.
II. CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC NGUỒN BỀ MẶT THÀNH
NƯỚC SẠCH
2. Sơ đồ
quy trình công nghệ xử lý
Căn cứ vào các đặc tính
của nguồn nước mặt tại Việt Nam, Công ty cổ phần cấp nước sạch Nông thôn đã đề
ra quy trình xử lý nguồn nước bề mặt thành nước sạch như sau:
2.1. Quá trình tiền xử lý
Xử lí sơ bộ nước bề mặt
rất quan trọng. Trước khi dẫn nước vào dây chuyền xử lí, Công ty Cổ phần cấp
nước sạch Nông thôn tiến hành dùng biện pháp lưu nước trong một hồ chứa nhân
tạo với thời gian hợp lý; dùng hệ thống máy trang bị hiện đại để tự động hóa
đưa vào nguồn nước một lượng hóa chất nhất định nhằm:
- Tạo qúa trình lắng tự
do của các hạt bụi và các kim loại nặng có nồng độ cao trong nước thô không
tách được bằng quá trình keo tụ như: côban, niken, xyanua (CN-), chì,cađimi và
các kim loại độc hại khác cùng lắng xuống đáy.
- Xúc tiến làm sạch tự
nhiên để tách được phần lớn các chất hữu cơ nhỏ và các tạp chất vô cơ.
- CPS thể dùng các biện
pháp trao đổi khí nhân tạo để tăng hàm lượng oxy hòa tan trong nước.
-Xử lý sơ bộ với dịch vôi
để duy trì độ cứng của nước từ 8.5-9.00 D.
Tóm lại, nhờ các quá
trình hóa, lý, sinh học tự nhiên xảy ra trong hồ nên chất lượng nước trong hồ
tốt hơn nguồn nước đã đưa vào hồ. Nhờ bổ sung quá trình nhân tạo nên nồng độ
tảo thấp, độ cứng và nồng độ kim loại độc hại giảm đi, kết quả là giảm đi rất
nhiều chi phí cho giai đoạn tiếp theo.
2.1.1. Quá
trình khử vi khuẩn virut nhờ các quá trình tự nhiên trong hồ chứa nước
Các quá
trình tự nhiên xảy ra trong hồ chứa nước có thể giảm đáng kể lượng vi sinh vật
gây bệnh có mặt trong nước, bởi:
- Nồng
độ chất dinh dưỡng cần thiết cho vi khuẩn trong nước rất thấp;
- Nhiệt
độ của nước nhỏ hơn 370C nên tốc độ sinh sản của vi khuẩn, vi rút rất
chậm;
- Các động
vật nguyên sinh, nấm trong nước thường là kẻ thù của vi khuẩn, vi rút;
- Tia cực
tím của ánh sáng mặt trời tiêu diệt vi khuẩn ở lớp bề mặt;
- Vi
khuẩn, vi rút thường bị lắng cùng với các hạt cặn trong nước;
- Các
chất vô cơ, các chất độc trong nước có thể hủy hoại vi khuẩn, độ pH không thích
hợp cho vi khuẩn.
2.1.2. Quá trình ngăn ngừa sự phát triển của tảo
Để ngăn
ngừa sự phát triển của tảo trong các nguồn nước, Công ty có thể sử dụng các
phương pháp sau đây:
2.1.2.1. Sử dụng
hóa chất để diệt tảo
Dùng
các hóa chất như CuSO4 nồng độ từ 0.1-10mg/l, những hợp chất của clo
nồng độ từ 0.3 đến 1.0 mg/l, natri sunfat,....Công ty nghiêm cấm đưa hóa chất có
hại cho sức khỏe người tiêu dùng, đặc biệt là các hóa chất bảo vệ thực vật vào
các hồ chứa để diệt tảo.
2.1.2.2. Giảm chất dinh dưỡng cho tảo trong nước
Các
chất dinh dưỡng như nitơ, photphat trong nước có thể được giảm bớt bằng cách
ngăn ngừa việc thải nước thải sinh hoạt, chất thải của con người và động vật
cũng như các chất thải có chứa NH4+, NO3-,
PO43- vào nguồn nước...Công ty đã áp dụng các phương pháp
tách chất dinh dưỡng ra nguồn thải như sau:
-Xử lý
sinh hóa kết hợp với khử NO3- trong điều kiện yếm khí;
-Clo
hóa nâng pH hoặc là làm thoáng khí;
- Tách
photphat ra khỏi nước bằng cách kết tủa với Fe3+, Al3+ hoặcCa(OH)2.
2.1.2.3. Giảm
cưồng độ ánh sáng tới hồ chứa
Cường độ
ánh sáng xuyên qua nưốc theo phương trình
I = Io. E-zd
Trong đó:
I0-
Cường độ ánh sáng ở bề mặt nước;
I- Cường
độ ánh sáng ở dộ sau d,
z- Hệ số
hấp phụ náh sáng của nước.
Như vậy,
muốn giảm được lượng ánh sáng hấp phụ vào nước cần giảm hệ số hấp phụ của nước
bằng cách giảm độ đục của nước.
2.2. Quá
trình Keo tụ- Tạo bông
Mục
đích của quá trình này nhằm làm kết tủa, kết lắng các hạt rắn rất nhỏ có trong nước để làm nước trong, sạch và
an toàn cho người sử dụng.
Dung dịch keo là hệ bền
(khó lắng) nhờ cấu trúc đặc biệt của các hạt keo. Trong nhóm này phải kể đến
virus, các chất có phân tử lượng lớn có nguồn gốc tự nhiên như axit humic. Hạt
keo có kích thước nhỏ (< 0,5 mm) nên bằng mắt và hiển vi
thông thường không thể nhìn thấy.
Hạt
keo kị nước có độ bền nhờ lớp điện kép tích điện cùng dấu. Hạt keo ưa nước có
độ bền nhờ tương tác hạt-nước thông qua các chóm chức ưa nước trên các phân tử
hạt keo.
2.2.1. Cấu
tạo hạt keo và tính bền của hệ keo
Theo
Atkins hệ keo là tên gọi cổ điển
của các hệ phân tán dị thể của các hạt có kích thước nhỏ hơn 500 nm
trong môi trường khác về chất so với chất hạt (ở đây ta chỉ đề cập đến môi
trường lỏng).
Tuy
nhiên kích thước không phải là yếu tố quyết định mà cấu tạo hạt keo mới là yếu
tố quyết định đến tính bền của các hệ keo.
Tuỳ
vào cấu tạo hạt và nguyên nhân gây ra độ bền ta có hai loại hạt keo: loại ưa
dung môi cụ thể là ưa nước (hydrophilic) và loại kị dung môi
hay kị nước (hydrophobic).
Loại
ưa nước là các dung dịch cao phân tử với các phân tử chất hữu cơ hoà tan có
kích thước lớn và chứa nhiều nhóm chức phân cực, có ái lực cao với các phân tử
nước.
Loại
kị nước là các loại keo có gốc ôxit hoặc hyđroxit kim loại. Do kích thước hạt
rất nhỏ hệ keo có bề mặt cực lớn, vì vậy về mặt nhiệt động chúng không bền và
có xu thế co cụm để giảm năng lượng bề mặt. Mặt khác do hạt keo có cấu tạo
đặc biệt của lớp điện kép tạo nên lực đẩy tĩnh điện hạt-hạt nên
chúng khó tiếp cận gần nhau, hút nhau và co cụm thành hạt lớn hơn đủ nặng để có
thể lắng được nên hệ này có tính bền.
Cấu
tạo đặc biệt của hạt keo có thể được làm rõ trên cơ sở ví dụ keo Fe(III):
Khi
hoà tan FeCl3 trong nước sẽ xảy ra phản ứng thủy phân:
FeCl3
+ 3H2O ® Fe(OH)3
+ 3HCl (1)
Kết
tủa Fe(OH)3 co cụm dưới dạng tập hợp hạt [mFe(OH)3] rất
nhỏ, được gọi là hạt nhân, nó có khả năng hấp phụ những ion giống các
thành phần tạo ra nó, ví dụ hấp phụ các ion Fe3+, tạo thành lớp ion
Fe3+ trên bề mặt hạt được gọi là lớp hấp phụ hay là lớp
ion quyết định dấu:
[mFe(OH)3]
+ nFe3+ ® [mFe(OH)3]nFe3n+ (2)
Như
vậy, ta có một hạt mới mang điện tích 3n+, nó có xu thế hút 3n các ion trái dấu
(Cl-) trong
dung dịch để trung hoà điện tích 3n+. Trong thực tế không phải tất cả 3n hạt Cl- bám chặt
vào nhân mà chỉ có 3(n-x) hạt Cl- bám vào, lớp ion Cl- bám vào
này được gọi là lớp điện tích trái dấu. Cùng với lớp n ion Fe3+
đã hấp phụ cố định ta có 3(n-x) ion Cl- bám theo hạt [mFe(OH)3]
tạo thành lớp điện kép gồm 3n điện tích dương và 3(n-x) điện tích âm,
kết quả là hạt keo (phần giữa dấu {}) mang điện tích 3x+:
[m
Fe(OH)3]nFe3n+ +
3(n-x) Cl- ®
{[mFe(OH)3]nFe3n+3(n-x)Cl-}3x+ (3)
Phần
còn lại 3x hạt Cl- “trôi nổi” trong dung dịch ở khoảng không
gian gần hạt, tạo nên lớp khuyết tán. Như vậy, nếu viết dưới dạng công
thức hoá học hạt keo có cấu tạo tổng thể như sau:
{[mFe(OH)3]nFe3n+3(n-x)Cl-}3x+3xCl-
hạt
nhân
lớp hấp phụ (lớp ion
quyết định dấu)
lớp điện tích trái dấu
lớp khuếch tán
Hạt keo
Trong không gian, hạt keo có
dạng như một quả cầu tích điện (hình 2.1).
Theo hình 2.1 hạt nhân là quả
cầu gồm tập hợp các phân tử Fe(OH)3(r) nằm ở tâm. Các ion quyết định
dấu gắn chặt vào quả cầu. Các điện tích trái dấu ở lớp gần nhất tạo thành lớp
ion nghịch và mặt biên A-A, các điện tích trái dấu – phần còn lại nằm ở lớp khuếch tán khá linh động,
vây quanh hạt keo tích điện như đám mây quanh trái đất.
Tóm
lại, để hạt keo trung hoà về điện hạt keo phải có hai lớp điện tích trái dấu có
cùng lượng điện tích: lớp hấp phụ (ví dụ, nFe3+) nằm trên bề mặt hạt
nhân tích điện dương hoặc âm (trong trường hợp nFe3+ là dương), điện
thế tương ứng của nó là thế nhiệt động hay là thế Nernst, jo; tiếp theo là lớp ion trái
dấu tích điện ngược lại (âm hoặc dương). Hai lớp điện tích này tạo nên một cấu
trúc tương tự như hai bản cực song song của một tụ điện, trong đó một bản cực
tích điện dương (hoặc âm) gắn chặt với hạt nhân là lớp ion quyết định dấu, còn
bản cực kia tích điện trái dấu và tạo nên lớp điện kép. Đây là cấu tạo thông
thường của tụ điện phẳng.
Công
ty đã dùng kĩ thuật xử lí nước cấp từ nước tự nhiên, và kể cả một số công đoạn
trong dây chuyền xử lí nước thải thông thường là kĩ thuật lắng – lọc. Để hình
dung tốc độ lắng của những hạt không tích điện dưới tác dụng của trọng trường
và đánh giá khả năng sử dụng bể lắng để xử lí làm trong nước xem bảng 2.1.
Ta
thấy các kỹ thuật lắng - lọc thông thường trong ngành nước chỉ có hiệu quả nhất
định đối với hạt có kích thước cỡ mm, trong trường hợp lọc tốt
nhất là lớn hơn 0,1 mm. Đối với những hạt cỡ 0,1 mm trở xuống rất khó lắng và
không thể lọc được bằng lọc cát thông thường. Để có thể lọc chúng bằng lọc cát
thông thường phải biến chúng thành những hạt lớn hơn. Phương pháp phổ biến để
thực hiện việc này là phương pháp keo tụ nghĩa là xử lí nước bằng những chất
keo tụ trước khi lắng - lọc.
Bảng 2.1 - Kích thước hạt và
thời gian lắng do trọng lực
Loại
hạt
|
Đường
kính, mm
|
Diện
tích bề mặt, m2/m3
|
Thời gian
lắng 1 m nước
|
Sỏi đệm
|
10
|
6.102
|
1 s
|
Cát lọc
|
1
|
6.103
|
10 s
|
Cát đen
|
0,1
|
6.104
|
120 s
|
Bùn
|
0,01
|
6.105
|
2 h
|
Vi khuẩn
|
0,001
|
6.106
|
8 ngày
|
Hạt keo
|
0,0001
|
6.107
|
2 năm
|
Hạt keo
|
0,00001
|
6.108
|
20 năm
|
Hạt keo
|
0,000001
|
6.109
|
200 năm
|
Ghi chú: Tính theo phương trình
Stoke
2.2.2.
Cơ chế
Keo tụ -Tạo bông
Đối với hệ phân tán có diện tích bề
mặt riêng lớn (bụi trong không khí, bùn, phù sa trong nước...) các hạt luôn có
xu hướng co cụm lại tạo hạt lớn hơn để giảm năng lượng bề mặt (tương tự hiện
tượng giọt nước, giọt thủy ngân luôn tự vo tròn để giảm diện tích bề mặt).
Hiện tượng các hạt keo cùng loại có
thể hút nhau tạo thành những tập hợp hạt có kích thước và khối lượng đủ lớn để
có thể lắng xuống do trọng lực trong thời gian đủ ngắn được gọi là hiện
tượng keo tụ. Hiện tượng này xảy ra khi thế x được triệt tiêu. Hiện tượng keo tụ có tính thuận nghịch, nghĩa là hạt
keo đã keo tụ lại có thể tích điện trở lại và trở nên bền (xem phần tiếp theo).
Các hoá chất gây keo tụ thường là các loại muối vô cơ và được gọi là chất keo
tụ.
Một cách khác làm các hạt keo co cụm
thành bông cặn lớn dễ lắng là dùng các tác nhân thích hợp “khâu” chúng lại
thành các hạt lớn hơn đủ lớn, nặng để lắng. Hiện tượng này được gọi là hiện
tượng tạo bông được thực hiện nhờ những phân tử các chất cao phân tử tan
trong nước và có ái lực tốt với các hạt keo hoặc các hạt cặn nhỏ. Khác với keo
tụ có tính thuận nghịch, các chất có khả năng tạo bông được gọi là các chất
tạo bông hay trợ keo tụ, quá trình tạo bông là bất thuận nghịch.
Như vậy, để kết tủa hệ keo Công ty đã sử
dụng các công nghệ sau:
1. Phá tính bền của hệ keo (do lực đẩy
tĩnh điện) bằng cách thu hẹp lớp điện kép tới mức thế x = 0, khi đó lực đẩy tĩnh điện hạt – hạt bằng không, tạo điều kiện cho
các hạt keo hút nhau bằng các lực bề mặt tạo hạt lớn hơn dễ kết tủa. Cách này
có thể thực hiện khi cho hạt keo hấp phụ đủ điện tích trái dấu để trung hoà
điện tích hạt keo. Điện tích trái dấu này thường là các ion kim loại đa hoá
trị.
2. Tạo điều kiện cho các hạt keo va
chạm với các bông kết tủa của chính chất keo tụ nhờ hiện tượng hấp phụ - bám dính (hiệu ứng quét).
3. Dùng những chất cao phân tử – trợ
keo tụ để hấp phụ “khâu” các hạt nhỏ lại với nhau tạo hạt kích thước lớn (gọi
là bông hay bông cặn) dễ lắng.
Việc xử lý nước bằng phèn nhôm, FeCl3
và PAA nhằm thực hiện đồng thời một, hai hay cả ba giải pháp trên.
Hình 2.3-
Mô hình quá trình keo tụ - tạo bông
(a) Sự đẩy giữa các hạt keo cùng dấu; (b) Hiện tượng co lớp điện kép và
sự hút nhau giữa các hạt keo bị trung hoà về điện; (c) Hiện tượng tạo bông nhờ
PAA: các hạt keo âm bị phân tử PAA “khâu lại” thành bông lớn.
2.2.3.
Chất
keo tụ và các yếu tố ảnh hưởng
2.2.3.1.
Sử
dụng hóa chất phèn nhôm Al2(SO4)3.nH2O
(n = 14 ¸ 18)
Đây là chất keo tụ phổ biến nhất, đặc
biệt là ở Việt Nam.
Khi dùng phèn nhôm làm chất keo tụ sẽ xảy ra phản ứng thuỷ phân:
Al2(SO4)3
+ 6H2O ® 2Al(OH)3¯ + 6H+
+ 3SO42- (5)
Hình 2 4- ảnh hưởng của pH
và liều lượng đến khả năng gây keo tụ của phèn nhôm
Nếu trong nước thiếu độ
kiềm (ĐK), pH sẽ giảm; nếu đủ ĐK sẽ có phản ứng:
Al2(SO4)3
+ 3Ca(HCO3)2 ® 2Al(OH)3¯ + 3CaSO4 + 6CO2 (6)
Theo phương trình (6) cứ 342
mg Al2(SO4)3 khan, hàm lượng 100% cần 6 mdl ĐK
(HCO3–). Nếu ĐK trong nước không đủ thì cần bổ sung vôi
hoặc sôđa để bù, nếu không pH sẽ hạ. Lượng kiềm cần (K) tính theo công thức:
K = F – ĐK + 1
= 0,0175F – ĐK + 1 (7)
Trong đó:
K = lượng kiềm cần thêm, mđl/L ;
F = lượng phèn, mg/L;
ĐK = độ kiềm của nước,
mđl/L.
Để
chuyển đổi ra đơn vị g/L, đối với vôi K sau khi tính theo pt. (7) cần nhân với
37; đối với sôđa nhân với 58.
Khi
sử dụng phèn nhôm hay bất kì chất keo tụ nào khác cần lưu ý nồng độ và vùng pH
tối ưu (hình 4), pH hiệu quả tốt nhất với muối nhôm là khoảng 5,5 ¸ 7,0.
Có
thể dùng phèn kép KAl(SO4)2.12H2O để thay phèn
nhôm, mọi quy luật tương tự phèn nhôm song giá đắt hơn nhiều. Không dùng NH4Al(SO4)2
trong xử lí nước cấp vì gây nhiễm amôni.
Ở
các nước công nghiệp người ta có đòi hỏi rất cao về độ trong của nước lọc. Nếu
đo bằng độ đục kế thì độ đục nước lọc phải nhỏ hơn hoặc bằng 0,1 đến 3 NTU
(AWWA Task Group 225 M).
Thậm
chí khi nước có độ đục rất thấp 0,1 NTU vẫn có rất nhiều cặn không thể thấy bằng
mắt thường. Nó có thể là những hạt cặn rất tinh chưa bị tác động của chất keo
tụ hoặc bản thân những mảnh vỡ nhỏ của các bông kết tủa chất keo tụ không thể
lắng – lọc được. Người ta đã xác định được ứng với SS = 0,1 mg/L có thể có tới
200 triệu hạt cỡ 0,1 mm là các mảnh của bông cặn
Al(OH)3 có r = 1,01. Tuy nhiên đây là đại
lượng không nguy hiểm vì chỉ ứng với hàm lượng Al3+ bằng 0,06 mg/L
(theo QĐ BYT 1329/2002, hàm lượng Al £ 0,2 mg/L).
Ở
Việt Nam phèn nhôm được sản xuất ở các nhà máy hoá chất Việt Trì, Tân Bình ...
và có hàm lượng nhôm quy về Al2O3 là khoảng 14% (đối với
hoá chất tinh khiết là 15,1%). Do độ ngậm nước rất thay đổi nên cần định lượng
hàm lượng nhôm khi sử dụng.
2.2.3.2.
Sử
dụng muối sắt Fe2(SO4)3.H2O hoặc
FeCl3.nH2O (n = 1 ¸ 6)
Muối
sắt chưa phổ biến ở Việt Nam nhưng rất phổ biến ở các nước công nghiệp. Hoá học
của muối sắt tương tự như muối nhôm nghĩa là khi thuỷ phân sẽ tạo axit, vì vậy
cần đủ độ kiềm để giữ pH không đổi.
Fe2(SO4)3
+ 3Ca(HCO3)2 ® 2Fe(OH)3¯ + 3CaSO4
+ 6CO2 (8)
So
với phèn nhôm, muối sắt có ưu thế là vùng pH tối ưu rộng hơn, từ 5 đến 9, bông
cặn bền hơn và nặng hơn nên lắng tốt hơn, lượng sắt dư thấp hơn.
2.2.3.3.
Sử
dụng polime nhôm, sắt
Sự
hình thành các hạt polyme nhôm trong dung dịch được làm rõ từ những năm 1980.
Đây là cơ sở khoa học để sản xuất PAC cũng như ứng dụng PAC.
2.2.3.4.
Hoá
học của quá trình keo tụ
Thông
thường khi keo tụ chúng ta hay dùng muối clorua hoặc sulphát của Al(III) hoặc
Fe(III). Khi đó, do phân li và thuỷ phân ta có các hạt trong nước: Al3+,
Al(OH)2+, Al(OH)2+, Al(OH) phân tử và Al(OH)4-,
ba hạt polime: Al2(OH)24+, Al3(OH)45+
và Al13O4(OH)247+ và Al(OH)3
rắn. Trong đó Al13O4(OH)247+ gọi
tắt là Al13 là tác nhân gây keo tụ chính và tốt nhất.
Với
Fe(III) ta có các hạt: Fe3+, Fe(OH)2+, Fe(OH)2+,
Fe(OH) phân tử và Fe(OH)4-, polime: Fe2(OH)24+,
Fe3(OH)45+ và Fe(OH)3 rắn. Các dạng polime Fex(OH)y(3x-y)+
hoặc FexOy(OH)x+r(2x-2y-r)+
Trong
công nghệ xử lí nước thông thường, nhất là nước tự nhiên với pH xung quanh 7
quá trình thuỷ phân như đã nêu xảy ra rất nhanh, tính bằng micro giây, khi đó
hạt Al3+ nhanh chóng chuyển thành các hạt polime rồi hyđroxit nhôm
trong thời gian nhỏ hơn giây mà không kịp thực hiện chức năng của chất keo tụ
là trung hoà điện tích trái dấu của các hạt cặn lơ lửng cần xử lí để làm chúng
keo tụ.
Khi
sử dụng PAC quá trình hoà tan sẽ tạo các hạt polime Al13, với điện
tích vượt trội (7+), các hạt polime này trung hoà điện tích hạt keo và gây keo
tụ rất mạnh, ngoài ra tốc độ thuỷ phân của chúng cũng chậm hơn Al3+
rất nhiều, điều này tăng thời gian tồn tại của chúng trong nước nghĩa là tăng
khả năng tác dụng của chúng lên các hạt keo cần xử lí, giảm thiểu chi phí hoá
chất. Ngoài ra, vùng pH hoạt động của PAC cũng lớn gấp hơn 2 lần so với phèn,
điều này làm cho việc keo tụ bằng PAC dễ áp dụng hơn. Hơn nữa, do kích thước
hạt polime lớn hơn nhiều so với Al3+ (cỡ 2 nm so với nhỏ hơn 0,1 nm)
nên bông cặn hình thành cũng to và chắc hơn, thuận lợi cho quá trình lắng tiếp
theo.
2.2.3.4.
Chất
trợ keo tụ - tạo bông
Có
bốn nhóm chất trợ keo tụ: các chất hiệu chỉnh pH, dung dịch axit silixic hoạt
tính, bột đất sét và polime.
Nhóm 1. Các chất hiệu chỉnh pH
Như
đã nêu quá trình keo tụ thường kèm theo sự tiêu thụ ĐK, nếu độ kiềm của nước
nguồn thấp gây giảm pH. Chất hiệu chỉnh pH thường là vôi. Vôi sống là CaO, khi
dùng phải tôi nghĩa là hoà vào nước để tạo Ca(OH)2. Do độ tan của
vôi thấp (trong khoảng 20¸30 oC, độ tan của
Ca(OH)2 bằng 1,65¸1,53 g/L) vôi thường được sử
dụng dưới dạng huyền phù Ca(OH)2.
Sử
dụng vôi ngoài khả năng ổn định pH tăng hiệu quả keo tụ bằng phèn còn tăng
cường xử lí các axit humic, độ cứng.
Nhóm 2. Axit silixic hoạt tính (AS)
AS thường được điều chế tại chỗ bằng
cách trung hoà thuỷ tinh lỏng Na2SiO3 bằng axit ở những
điều kiện cụ thể. Axit silixic tạo thành thực chất là polime vô cơ, mang điện
tích âm. Khi vào nước các phân tử AS âm điện nhanh chóng hút các hạt bông cặn
nhỏ mang điện dương của kết tủa hyđroxit nhôm hoặc sắt tạo bông lớn.
Nhóm 3. Bột đất sét
Bột
sét tác dụng tương tự AS do chúng mang điện tích âm, hơn nữa chúng còn có khả
năng, tuy yếu, hấp phụ một phần các chất hữu cơ gây màu, bông cặn tạo thành
cũng nặng hơn. Cũng như AS, bột sét ở liều lượng thích hợp dùng tốt khi phối
hợp với phèn nhôm và muối sắt.
Nhóm 4. Các chất tạo bông hữu cơ - cao phân tử
Đây
là nhóm chất có tác dụng tạo bông tốt nhất. Các polyme dùng làm chất tạo bông
cho quá trình xử lý nước phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Tan tốt trong nước;
- Không độc;
- Có khả năng tạo bông tốt nhờ ái lực cao đối với
hạt keo và bông cặn nhỏ trong nước xử lí.
Tùy vào bản chất nhóm chức mà
người ta phân ra làm 3 loại:
- Loại không phân ly (nhóm chức amid -CONH2).
- Loại tạo anion (nhóm chức axit -COO-)
- Loại tạo cation (nhóm chức
amin bậc cao ºN+Cl-)
Tạo bông hữu cơ bao gồm các hợp chất
tự nhiên và các hợp chất tổng hợp.
Các hợp chất tự nhiên chủ yếu có
cấu trúc đuờng, bao gồm:
- Gồm thực vật;
- Pectin;
- Xantan (sản phẩm lên men yếm khí đường mía) ....
Các
hợp chất tổng hợp:
Thường
chúng là các hợp chất cao phân tử, có phân tử khối ở mức 104-105.
Chúng có thể được sử dụng riêng, nhưng thường phối hợp với chất keo tụ vô cơ.
Khi sử dụng chúng liều lượng muối vô cơ giảm mạnh, bùn sinh ra sẽ ít hơn nhiều
so với sử dụng keo tụ vô cơ.
Thường
gặp bốn nhóm hợp chất:
- sản phẩm trùng ngưng melaminphoocmaldehit:
- sản phẩm trùng ngưng của epiclohyđrin và dimetylamin:
-
poly(dialyl-dimetyl amôni clorua):
- Nhóm phổ biến nhất hiện nay là các
polyacrylamit (PAA) tan trong nước, hiện nhập ngoại. Liều dùng trong xử lí nước cấp
của chúng là 5¸15 phần triệu. Tốt nhất là dùng PAA kết hợp với
phèn. Khi dùng PAA, dung dịch PAA thường được đưa vào sau khi khuấy trộn phèn
khoảng 1 ¸ 2 phút. Điểm khác cơ bản của quá trình tạo bông
là tốc độ tạo bông lớn (trong vòng 2 phút so với phèn cần 20 phút) và kích
thước bông cặn cũng như độ bền bông cặn hơn hẳn bông cặn phèn.
PAA
còn được sử dụng phổ biến trong xử lí nước thải, xử lí bùn và nhiều ngành công
nghiệp với liều dùng lên tới 5-50 g/m3.
Nhược
điểm chính của PAA là sản phẩm nhập, đắt và phải lựa chọn chủng loại PAA và
liều lượng cho phù hợp với từng loại nước bằng thực nghiệm.
Công thức cấu tạo của các loại
PAA phổ biến cho ở hình 7.
Loại không phân li (non-ionic):
Loại anion (anionic):
Loại cation (cationic):
Hình 2.5- Công thức cấu tạo của các loại PAA xử lý
nước
2.2.3.5.
Các
yếu tố ảnh hưởng đến quá trình keo tụ
Ngoài yếu tố bản chất của chất keo tụ
(nhất là giá trị và dấu điện tích) và tạp chất có trong nước các yếu tố sau là
quan trọng nhất.
Yếu tố pH
Mỗi chất keo tụ, dù là muối nhôm hay
sắt, đều có khoảng pH tối ưu cho sự hình thành kết tủa hyđroxit tương ứng. Thấp
hơn giá trị này các bông Me(OH)3 tạo thành sẽ bị hoà tan bởi axit.
Cao hơn giá trị này sẽ tạo thành các muối bazơ khó kết tủa.
Đối với các chất điện li polime pH sẽ
ảnh hưởng đến khả năng phân li của các nhóm chức, gây tăng hoặc giảm mật độ các
nhóm chức hoạt động làm thay đổi khả năng tương tác phân tử polime - hạt keo.
Yếu
tố hữu cơ
Khi xử lý nước bằng chất keo tụ cần
lưu ý hiện tượng làm bền keo bởi các chất bị hấp phụ hữu cơ. Các chất
hữu cơ tự nhiên (ví dụ, axit humic - AH) phổ
biến trong nước có tính làm bền keo rõ rệt nhờ khả năng tạo phức với Fe2/3+,
ngoài ra lớp màng chất hấp phụ hữu cơ vây quanh hạt keo ngăn cản tương tác giữa
các hạt keo với các tác nhân keo tụ ta chủ động đưa vào, giảm rõ rệt tác dụng
làm trong nước của chất keo tụ. Về phần mình, lượng HA trong keo đất có thể
đánh giá qua pH, bảng 2.2 cho ta thấy tỉ lệ HA thường gặp trong keo đất phụ
thuộc vào pH như thế nào.
Đây chính là trường hợp ta gặp khi
nước có mầu (do chất hữu cơ tan trong nước). Cách xử lý thường là nâng pH bằng vôi để giảm tỉ lệ HA/đất hoặc tiền xử lý
bằng các chất ôxy hoá như clo, ôzôn để phá hủy một phần chất hữu cơ
trước khi keo tụ.
Bảng 2.2 - Sự phụ thuộc tỉ lệ
HA/đất (phần HA/100 phần đất) vào pH môi trường nước
Ph
|
HA/đất
|
pH
|
HA/đất
|
3,85
|
9,60
|
6,95
|
6,28
|
5,0
|
8,18
|
7,25
|
5,37
|
5,1
|
7,26
|
8,50
|
2,05
|
2.2.3.6. Ứng dụng
Quá trình keo tụ – tạo bông
thường áp dụng trước lắng hoặc lọc để:
- Làm trong nước, xử lí một
phần độ màu trước khi lọc (xử lí nước cấp): các chất keo tụ trong xử lí nước
cấp thường là phèn nhôm, gần đây xuất hiện Poly-Aluminium-Chloride (PAC) là
muối nhôm dạng polime, các chất trợ keo tụ PAA. Muối nhôm thường sử dụng ở mức
trên 10 mg/L, PAC sử dụng ở mức bằng 1/2¸1/4 muối nhôm, PAA sử dụng ở mức 0,2¸0,5 ppm.
- Giảm hàm lượng SS trước khi vào xử lí
sinh học (xử lí nước thải);
- Tăng cường khả năng lắng của bể lắng cấp
2 trong xử lí nước thải;
- Lọc trực tiếp nếu SS không
quá cao.
Trong một số trường hợp các chất keo
tụ ở liều cao có thể áp dụng để xử lí màu trong nước thải công nghiệp, ví dụ
nước thải dệt nhộm, nước thải giấy.
Quá trình keo tụ được thực hiện bằng
cách trộn nước với chất keo tụ trong các thiết bị khuấy trộn nhanh, sau đó nước
được đưa vào bể tạo bông với sự khuấy trộn nhẹ nhàng nhằm tăng cường tiếp xúc
hạt - hạt làm cho bông phát triển kích thước, tránh vỡ bông. Tiếp theo nước vào
bể lắng thực hiện quá trình tách rắn/lỏng.
Sự keo tụ - tạo bông được coi là hiệu
quả nếu bông cặn tạo ra dễ dàng nhìn thấy bằng mắt thường (kích thước gần 1 mm
trở lên), khi đó nước sẽ lắng trong nhanh trong ống quan sát trong vòng 10 - 15
phút để yên.
Ngoài những ứng dụng trong xử lí nước
chất keo tụ tạo bông còn áp dụng nhiều trong việc xử lí bùn nhằm tăng khả năng
tách nước khỏi bùn, áp dụng trong công nghiệp giấy nhằm điều chỉnh đặc trưng
lưu biến của hỗn hợp bột...
2.2.3.7.
Khuấy trộn
Khuấy trộn là quá trình mà hầu hết các
hệ phản ứng đều cần thực hiện. Mục đích chính của nó là tạo tiếp xúc tối đa
giữa các phân tử, ion, các thành phần phản ứng, giảm thiểu cản trở gây ra do
khuếch tán chậm.
Đối với hệ lỏng hoặc
rắn(ít)/lỏng(nhiều) ta dùng thuật ngữ khuấy (hoặc cả khuấy trộn),
đối với hệ rắn/rắn hoặc rắn(nhiều)/lỏng(ít) ta thường dùng thuật ngữ trộn.
Ngoài việc tạo điều kiện cho phản ứng
xảy ra nhanh hơn, giảm thiểu tác động của yếu tố khuếch tán, khuấy trộn còn có
các tác dụng quan trọng khác như:
- Làm đều hỗn hợp (trong công nghệ vật
liệu bột)
- Làm vỡ các hạt, giọt lớn (trong công
nghệ hoá học).
- Tăng cường tốc độ truyền
nhiệt, giảm nhẹ hiện tượng tăng giảm nhiệt độ cục bộ.
Trong
quá trình keo tụ – tạo bông khuấy trộn nhằm:
- Phân bố nhanh, đều chất keo tụ, tạo bông
trong toàn thể tích nước cần xử lý.
- Tăng hiệu quả xử lí, suy ra giảm chi phí
trong quá trình keo tụ.
- Tăng tiếp xúc hạt – hạt nhỏ, thúc đẩy
tạo bông.
- Làm lơ lửng các hạt rắn trong lỏng
(trong hệ xử lí vi sinh) hoặc khí
Khi
đó cần phân biệt: đối với quá trình phản ứng, cần phân bố đều hoá chất nhanh
tối đa nên ta sử dụng quá trình khuấy nhanh; đối với quá trình tạo bông
hyđroxit kim loại khuấy nhanh sẽ làm vỡ bông cặn, khi đó ta cần khuấy nhẹ
nhàng. Hiệu quả quá trình khuấy phụ thuộc vào công suất khuấy.
Tính công suất
khuấy
Để
định lượng quá trình khuấy ta dùng đại lượng građien vận tốc G. Trong
giới hạn nhất định, đại lượng G càng lớn sự khuấy càng tiến tới lý tưởng. G
chính là hàm của công suất khuấy áp cho một đơn vị thể tích cần khuấy:
(9)
hoặc hệ
quả:
Trong
đó: G = građien vận tốc, s-1
P = Công suất tuyền vào chất
lỏng, w
V = Thể tích cần khuấy, m3
m = Độ nhớt động học chất lỏng, Pa.s
Q = lưu lượng, m3/s
V = thể tích cần khuấy, m3
t0 = thời gian lưu
nước, s
Tuỳ mỗi nhiệm vụ cụ thể ta chọn giá
trị G thích hợp. Hiệu quả khuấy (tổng số va chạm hạt – hạt) đo bằng Gto,
trong đó to là thời gian lưu nước trong vùng khuấy.
Bảng 2.3, 2.4 cho ta các dữ liệu kinh
nghiệm để tính các đại lượng G, Gto ứng với mỗi quá trình.
Bảng 2.3
– Các giá trị G để tính khuấy nhanh
Các
giá trị thời gian lưu to (s)
|
Giá
trị G lựa chọn (s–1)
|
0,5 (trộn trong ống)
|
3500
|
10¸20
|
1000
|
20¸30
|
900
|
30¸40
|
800
|
Lâu hơn nữa
|
700
|
Bảng 2. 4 – Các giá trị Gto
để tính bể tạo bông
Loại bồn
|
G (s–1)
|
Gto
|
Nước có SS thấp, keo tụ để xử lí cả màu
|
20¸70
|
60000¸200000
|
Nước có SS cao, keo tụ để xử lí SS
|
50¸150
|
90000¸180000
|
Làm mềm, 10% SS
|
130¸200
|
200000¸250000
|
Làm mềm, 39% SS
|
150¸300
|
390000¸400000
|
Khuấy nhanh
Đây là quá trình ảnh hưởng mạnh đến
hiệu quả sử dụng chất keo tụ. Như đã nêu, quá trình thuỷ phân xảy ra trong
micro giây (tài liệu nói là 0,1s), như vậy khuấy càng nhanh càng tốt về khía
cạnh đáp ứng yêu cầu phản ứng. Ngược lại nếu ion Al3+ hình thành
chưa kịp tiếp xúc hạt keo để thực hiện chức năng trung hoà điện tích, gây keo
tụ, nó đã thuỷ phân tạo Al(OH)3, khi đó nó chỉ có thể tác động như
một chất tạo bông.
Phân loại các phương pháp khuấy nhanh:
- Khuấy cơ khí bằng máy khuấy
(tốt nhất)
- Khuấy bằng khí nén.
- Khuấy bằng cách bơm chất
lỏng tuần hoàn
- Khuấy tĩnh: tận dụng các cơ
cấu dòng chẩy, ví dụ: khuấy trong ống trộn; khuấy kiểu rãnh thu – dãn (rãnh
Parshall); ”thác” nước; vách đục lỗ, vách đảo chiều ...
Bồn khuấy trộn cơ học
Hình 2.6 - Bồn khuấy nhanh cơ
khí
Bồn khuấy nhanh thường có thời gian
lưu thuỷ lực cỡ 10 ¸ 30 s, G ở mức 600 ¸ 1000 s-1, thể tích giới hạn ở 8 m3.
Bồn khuấy thường có hình trụ, để tăng hiệu quả khuấy thường bố trí thêm 2 ¸ 4 vách chắn nhỏ dọc thành bể
để tăng hiệu quả khuấy, đôi khi có vách ngang chống tạo xoáy.
Máy
khuấy gồm: động cơ điện, hộp số giảm tốc, trục khuấy, cánh khuấy.
Cánh
khuấy thường dùng loại turbin hoặc mái chèo (xem h. 9). Hoá chất phải cho vào
vùng ngay dưới cánh khuấy, nơi được khuấy mạnh nhất.
Mái chèo nghiêng
|
Chân vịt
|
Tuốc bin
|
Hình 2. 7- Một số dạng cánh
khuấy
Một số quy tắc kinh nghiệm:
- Độ sâu mức nước: 0,5 ¸ 1,1 lần
đường kính bồn;
- Đường kính cánh khuấy: 0,3 ¸ 0,5 lần
đường kính bồn, thường £ 1m;
- Tấm chắn dọc rộng ~ 0,1 lần đường kính bồn;
- Nếu mức nước = 1,1 ¸ 1,6 lần đường kính bồn cần
lắp 2 tầng cánh khuấy, khi đó khoảng cách giữa hai cánh khuấy (theo trục khuấy)
gấp hai lần đường kính cánh khuấy;
- Hai bộ cánh khuấy đồng
trục gây ra công suất khuấy »1,9 lần so với một bộ nếu dùng một môtơ.
Bảng2.
5– Các giá trị KT để chọn cánh khuấy
Loại
cánh khuấy
|
KT
|
Chân vịt một tầng, 3 cánh khuấy
|
0,32
|
Chân vịt hai, 3 cánh khuấy
|
1,00
|
Tuốc bin, 6 cánh phẳng, có chắn
|
6,30
|
Tuốc bin, 6 cánh cong
|
4,80
|
Tuốc bin quạt, 6 cánh nghiêng 45o
|
1,65
|
Tuốc bin vòng, 6 cánh
cong
|
1,08
|
Tuốc bin vòng, với stator, không vách chắn
|
1,12
|
2.3.
Quá trình tạo bông
Hệ tạo bông ảnh hưởng đến kích thước
bông hình thành, do đó ảnh hưởng đến khả năng tách R/L trong hệ tiếp theo.
Mục đích quá trình tạo bông là khuấy
vừa đủ để tạo điều kiện tiếp xúc tốt nhất giữa các hạt cặn nhỏ với nhau, tạo
điều kiện cho chúng hút nhau, tạo bông lớn hơn tới mức có khả năng lắng dễ
dàng, nhưng mặt khác không được khuấy quá mạnh làm “vỡ” bông cặn mới hình
thành, như vậy đại lượng G phải nhỏ và hẹp (bảng 4).
Do chất lượng nước vào thay đổi nên
cần thiết kế sao cho có thể thay đổi G được 2 ¸ 3 lần mà không quá thay đổi
kết cấu bể tạo bông. Bông càng lớn, mật độ bông càng cao ta càng cần G lớn (9).
Đối với cặn của quá trình làm mềm bằng vôi – sôđa, tỷ khối nặng hơn cặn keo tụ
nên G cao nhất. Khi mật độ SS tăng, giá trị G cũng tăng tương ứng.
Cánh khuấy thường dùng là loại cánh
hướng tâm do cánh khuấy loại này tạo G có giá trị đều nhất trong toàn thể tích.
Có thể khuấy tạo bông bằng các cánh
khuấy dạng tấm phẳng, hệ bồn nhiều vách ngăn đảo chiều.
Hình 2.8- Bể tạo bông với cánh
khuấy dạng tấm phẳng
Bồn/bể tạo bông tốt nhất là hình chữ
nhật, chia 3 vùng. Đại lượng G phân chia sao cho giảm dần từ đầu vào tới đầu ra
(h 2.10). G lấy theo bảng 2.5.
Một số quy tắc kinh nghiệm:
- Cánh khuấy mái chèo có đường kính=0,2 ¸ 0,5 bề rộng bể, tối đa= 3m.
- Tính công suất khuấy dùng
biểu thức Rushton:
(10)
Trong đó: P =
Công suất, w
KT
= Hằng số cánh khuấy
n
= Tốc độ quay của cánh khuấy, v/s
Di =
Đường kính cánh khuấy, m
r = Tỷ khối nước, kg/m3
g = Gia
tốc trọng trường, 9,8 m/s2
Trong các bể không có vách ngăn P thực
tế chỉ có thể bằng 1/6 P tính theo pt. (10). Các giá trị KT chọn
theo bảng 5.
Một kiểu bể tạo bông khác, khá đơn
giản và hiệu quả là bể tạo bông kiểu Alabama (hình 9). Đây thực chất là
một thiết bị phản ứng khuấy trộn bằng thuỷ lực, dòng nước được đảo chiều nhiều
lần nhờ hệ thống ống hướng dòng. Hệ thống ống đảo chiều dòng nước có thể được
thay bằng hệ vách ngăn với cùng chức năng, khi đó ta gọi là thiết bị phản
ứng với vách ngăn đảo chiều.
Hình 2 9- Bể tạo bông kiểu Alabama
I.
Lắng
2.4.Quá trình lắng và bể lắng
Khái
niệm: Lắng là quá trình tách cặn lơ lửng
khỏi nước nhờ tác động của trọng lực, nó còn được gọi là sa lắng.
Các
chất lơ lửng ở đây có thể là SS tự nhiên, các bông cặn sau keo tụ – tạo bông,
kể cả bông vi khuẩn sau xử lý sinh học.
Công
cụ để thực hiện quá trình lắng là bể lắng. Bể lắng có thể được chế tạo
dưới dạng thiết bị bằng thép, compozit hoặc xây dựng bằng beton, gạch. Các hình
dạng phổ biến nhất là hình trụ vuông hoặc tròn, hình hộp chữ nhật.
Một bể lắng cần có bốn vùng
(hình 3.1) [1]:
1. Vùng nhận và phân phối nước. Đây là đầu vào bể
2. Vùng lắng
3. Vùng chứa bùn lắng
4.
Vùng thu nước lắng
Hình 3.1- Mô hình bể lắng
và bốn vùng cơ bản
Vùng
nhận nước có chức năng phân phối nước đều sao cho tận dụng được tối đa không gian
vùng lắng, ngoài ra phải giảm vận tốc nước vào vùng lắng tới vận tốc thiết kế
giới hạn cho vùng lắng vo được gọi là tốc độ giới hạn hay tải
bề mặt (đơn vị: m3/m2.ngày). Như vậy cấu tạo của vùng
nhận nước phải đảm bảo được các yêu cầu kể trên. Trong thực tế thiết kế vùng
nhận nước không được coi trọng nên hiệu quả bể lắng kém hơn so với khối tích bể
tới 25%.
Để
thực hiện điều này vùng thu nước thường có vách hướng dòng (có thể kiêm phân
phối (hình 3.1). Nước cũng có thể được phân phối và giảm tốc tốt thông qua hệ
ống nhiều đầu ra.
Vùng
thu nước lắng có chức năng thu nước đã lắng bớt cặn, chuyển tải
đi sang công đoạn tiếp theo. Để thực hiện điều này cần bố trí các máng thu.
Để vận tốc nước vào máng không quá cao, điều dẫn tới tạo các dòng chảy mạnh gần
máng thu cuốn theo cặn đang lắng người ta đưa ra thông số tải máng thu (đơn vị:
m3/m.ngày). Rõ ràng là cặn càng nặng càng khó bị cuốn trôi nên chiều
dài máng thu càng ngắn. Bảng 3.1 cho ta sự phụ thuộc tiêu chuẩn thiết kế đối
với máng thu cho các loại bông cặn khác nhau.
Bảng 3.1- Các thông số tải
máng thu thường gặp [1]
Loại bông cặn
|
Tải máng thu, m3/m.ngày
|
Bông đánh phèn với nước
ít đục
Bông đánh phèn với nước đục
Bông cặn xử lí độ cứng
|
143¸179
179¸268
268¸322
|
Vùng
chứa bùn phải thuận lợi cho việc thu gom,
xả bùn và vệ sinh bể thường kì. Thường phải có hố gom bùn bố trí gần cửa nhận
nước. Nếu bể gom bùn thủ công thì đáy bể phải có độ dốc nhất định về phía hố gom. Độ dốc từ hai bên
về tâm bể ít nhất phải là 10%, từ đầu thu nước lắng đến đầu nhận nước vào ít
nhất là 5%. Nếu gom bùn bằng cần gạt bùn cơ khí thì độ dốc ít là 1%.
Độ sâu hố gom bùn ít nhất là 0,3 mét.
Với bể lắng thiết kế vận hành tốt, với nước keo tụ – tạo bông tốt thì có tới
75% bùn lắng được lắng trong khoảng 1/5 đầu tiên của đường đi của nước, vì vậy
vùng lắng bùn tính từ khoảng 2 mét cách vùng nhận nước vào.
2.4.1.
Lí thuyết tính tốc độ lắng hạt – Phương trình Stoke
Bản chất của quá trình lắng có thể xem
xét trên cơ sở hiện lượng lắng của hạt cặn có kích thước d, tỷ khối rP trong môi trường chất lỏng, ví dụ nước, có độ nhớt động lực học m.
Để xây dựng mô hình tính tốc độ
lắng hạt ta chấp nhận một số điều kiện sau:
1. Các hạt cặn có hình dạng
và kích thước không đổi, không tương tác, không co cụm với nhau, nghĩa là mỗi
hạt có thể coi là hạt độc lập với nhau, sự sa lắng của hạt này không ảnh hưởng
đến hạt kia.
2. Bồn có kích thước rất lớn
so với hạt, nghĩa là bỏ qua yếu tố tương tác thành bình.
3. Chất lỏng có độ nhớt nhất
định.
4. Chất lỏng không chuyển
động
Hình 3.2- Lực tác động lên hạt khi sa lắng trong
môi trường lỏng
Khi hạt rơi trong nước (hoặc bất kì
chất lỏng nào khác) nó chịu ba lực tác động (hình 3.2) [1].
- Lực trọng trường Fg
có phương kéo hạt xuống đáy bình,
- Lực cản của chất lỏng gây
ra do lực nổi Archimet Fb,
- Lực ma sát với chất
lỏng FD làm chậm chuyển động của hạt.
Tổng hợp các lực cản ta được (h. 3.2) .
Khi Fg > Fn
ta sẽ có hạt chuyển động nhanh dần với gia tốc a xác định theo định luật Niutơn
(F = ma).
Phương trình cân bằng lực:
trong đó:
m = khối lượng hạt,
a = gia tốc sa lắng,
mũi tên là kí hiệu vector.
Bỏ
qua dấu vector, lưu ý hướng tác động của các lực, viết phương trình Niutơn cho
hạt khảo sát ta có:
ma = Fg – Fb – FD
hay: ma = (Fg – Fb) – FD (3.1)
Tổng (Fg – Fb)
có ý nghĩa như lực trọng trường hiệu dụng Fg’ kéo hạt
xuống.
Trong
trường hợp lực trọng trường hiệu dụng lớn hơn lực ma sát FD hạt sẽ
rơi với gia tốc a như pt. (3.1).
Như
vậy vận tốc rơi của hạt sẽ tăng theo thời gian chuyển động hạt, điều này dẫn
tới FD tăng, tới thời điểm khi (Fg – Fb) = FD
thì gia tốc = 0, khi đó hạt chuyển động với vận tốc không đổi.
(Fg
– Fb) = Fg’ là lực trọng trường hiệu dụng kéo hạt xuống xác
định bằng:
Fg’ = (rp - r)gVp (3.2)
trong đó:
Fg’ = Llực trọng trường hiệu dụng gây ra sự sa
lắng của hạt,
rp = Tỷ khối của hạt,
r = Tỷ khối của nước,
g = Gia tốc trọng trường, = 9,8 m/s2
VP = Thể
tích hạt.
Lực ma sát có xu thế kìm sự sa
lắng bằng:
FD = rCDAPv2 (3.3)
trong đó:
CD
= Hệ số ma sát giữa hạt đang rơi với
môi trường lỏng,
v = Tốc độ rơi của hạt,
AP = Thiết
diện hạt vuông góc với hướng rơi của hạt.
Hệ
số ma sát CD là một hàm phức tạp, ví dụ, đối với hạt rơi trong dòng
chảy tầng, Stoke đưa ra công thức lực ma sát, phần trong ngoặc là hệ số ma sát
CD:
FD = (3pmd)v (3.3a)
Trong
đó d là đường kính hạt; m là độ nhớt động lực học của chất lỏng.
Kết
hợp các pt. (3.1) đến (3.3) ta có:
rpVpa = rpVp= (rp - r)gVp - rCDAPv2 (3.4)
Khi
hạt sa lắng trong môi trường nước dưới tác dụng của tổng lực đã nêu hạt chuyển
động nhanh dần, đồng thời các lực cản tăng theo v2 đến khi lực sa
lắng (lực trọng lực hiệu dụng) cân bằng lực cản (lực ma sát) ta có a = 0 hay
vận tốc bằng hằng số, như vậy:
(rp - r)gVp = rCDAPv2 (3.5)
Từ đây ta tính được v, tốc độ
lắng của hạt:
(3.6)
Trường
hợp đơn giản nhất, nếu hạt là hình cầu đường kính d, thay các giá trị Vp,
Ad bằng các biểu thức chứa d (VP = (1/6)pd3; AP =
(1/4) pd2); ta có:
(3.7)
Trong
thực tế đại lượng CD – hệ số ma sát không phải hằng số, nó tăng khi
tốc độ chuyển động của chất lỏng gần hạt tăng và phụ thuộc chỉ số Reynold,
Re, chỉ số không thứ nguyên nói lên chế độ chảy của chất lỏng. Đối với hạt hình
cầu ta có:
(3.8)
Giá trị của Re phụ thuộc vào
ứng với các chế độ chảy [1]:
Re <
1: chảy tầng
Re
> 1000: chảy rối
1 < R < 1000: vùng
trung gian
Với các hạt hình cầu ta
có thể sử dụng các giá trị thực nghiệm:
Nếu
Re < 1 ta có CD =
24/Re (3.9)
Nếu 1
< R < 1000 ta có CD =
24/Re + 3/Re0,5 + 0,34 (3.10)
Nếu R > 1000 ta
có CD = 0,34 đến 0,4 (3.11)
Ngoài
ra CD phụ thuộc hình dạng hạt, yếu tố quyết định AP thể
hiện qua sự phụ thuộc vào yếu tố (AP/VP): hạt càng khác
hình cầu (AP/VP càng lớn) thì CD càng lớn.
Khi
đó, kết hợp pt. (3.7(3.9) ta được phương trình Stoke cho phép
tính tốc độ lắng v của hạt:
EMBED Equation.3 (3.12)
Như
vậy để hạt lắng nhanh độ chênh lệch (rp - r) là
rất quan trọng, điều này có nghĩa là chất hạt càng nặng hạt lắng càng nhanh.
Trong
thực tế các hạt không hỡnh cầu lí tưởng như mô tả, hình dạng của chúng rất khác
hình cầu, kích thước đa dạng, ta gọi là hệ đa phân tán. Chúng không
những có thể tương tác với nhau tạo bông lớn (hiện tượng keo tụ-tạo bông, hiện
tượng tạo bông của vi khuẩn trong bể lắng cấp 2) mà chúng còn tương tác với
chính môi trường nước, khi đó không thể áp dụng pt. (3.12). Vì vậy, để thuận
lợi cho việc phân tích quá trình lắng người ta phân ra bốn kiểu lắng tuỳ mức độ
tương tác hạt-hạt.
2.4.2. Phân loại các kiểu loại lắng
2.4.2.1
Lắng loại 1
Đây
là trường hợp các hạt lắng không có tương tác hạt-hạt. Đây là các trường hợp lắng cặn tự nhiên thô, cặn nồng độ
thấp, không có tương tác hạt-hạt và tương tác hạt-nước có thể bỏ qua.
Kiểu
lắng này hay gặp ở các hệ tiền xử lí để lắng cát, và các hạt thô.
2.4.2.2. Lắng
loại 2
Đây
là kiểu lắng của các hạt có khả năng bám kết vào nhau tạo bông lớn, khi
đó hạt tăng dần về kích thước, khối lượng dẫn đến tốc độ lắng tăng. Hiện tượng
lắng loại hai hay gặp khi sử dụng chất keo tụ – tạo bông.
2.4.2.3.
Lắng loại 3
Còn
gọi là lắng bị cản hay lắng vùng. Khi nồng độ cặn tương đối cao,
khi đó tương tác hạt-hạt làm chậm quá trình lắng, cả khối hạt dường như cùng
lắng, khi đó ta sẽ thấy rõ biên phân cách nước/bùn. Hay gặp trong các bể lắng
cấp hai của hệ xử lí sinh học.
2.4.2.4. Lắng loại 4
Đây
là trường hợp tương tác hạt-hạt mạnh đến mức có thể hình thành cấu trúc
không gian của bùn, nó xuất hiện khi nồng độ bùn cặn cao, sự lắng xảy ra
đồng nghĩa với sự nén bùn làm thoát nước trong cấu trúc bùn. Động lực
của quá trình là sự tăng khối lượng liên tục của bùn nhờ sự bổ xung bùn mới
liên tục từ lớp nước phía trên do sa lắng các kiểu 1, 2, 3. Hay gặp ở lớp dưới
của lớp bùn trong bể lắng cấp 2 (hệ xử lí sinh học), bể nén bùn
2.4.3. Các dạng bể lắng cơ bản
Hiện nay có rất nhiều dạng bể lắng vì vậy Công
ty chỉ trình bày các dạng bể lắng cơ bản nhất, phổ biến nhất trong xử lý nước
cấp: Bể lắng đứng, bể lắng ngang và bể lắng li tâm.
2.4.3.1. Bể lắng đứng
- Hình dạng, cấu tạo: Hình trụ vuông hoặc tròn. Đáy
chóp tạo góc ít nhất 50o so với mặt bằng. Thường đi kèm với khoang
phản ứng đổi chiều dòng nước.
- Nguyên tắc hoạt động: Nước chảy theo phương thẳng
đứng từ dưới lên trên còn các hạt cặn rơi ngược chiều với chiều chuyển động của
dòng nước từ trên xuống. Khi xử lý nước không dùng chất keo tụ, các hạt cặn có
tốc độ rơi lớn hơn tốc độ dâng của dong nước sẽ lắng xuống được, các hạt cặn có
tốc độ rơi nhỏ hơn hoặc bằng tốc độ dâng của dòng nước sẽ chỉ lơ lửng hoặc bị
cuốn theo dòng nước lên phía trên bể. Khi sử dụng nước có dùng chất keo tụ,
trong nước có chứa các hạt cặn kết dính. Do đó ngoài hạt cặn có tốc độ rơi ban
đầu lớn hơn tốc độ dâng của dòng nước lắng xuống được và các hạt cặn khác cũng
lắng được. Nguyên nhân là do trong quá trình các hạt cặn có tốc độ rơi nhỏ hơn
tốc độ dâng của dòng nước bị đẩy lên trên, chúng kết dính với nhau và tăng dần
kích thước do đó tốc độ rơi lớn hơn tốc độ chuyển động của dòng nước làm cho nó
lắng xuống được.
Đầu
tiên nước chảy vào ống trung tâm ở giữa bể rồi đi xuống dưới qua bộ phận hãm
làm triệt tiêu chuyển động xoáy rồi vào bể lắng. Trong bể lắng đứng, nước
chuyển động từ trên xuống, cặn từ trên xuống đáy bể. Nước đã lắng được thu vào
máng bố trí xung quanh thành bể và được
đưa sang bể lọc.
- Thông
số thiết kế:
Để
xây dựng các tiêu chuẩn thiết kế bể lắng đứng (h. 3.3), khi đó ta có hai khái
niệm: tốc độ lắng cặn vP và tốc độ dâng nước vo.
Như
vậy, điều kiện lắng sẽ là:
vP > vo (3.13)
Nếu
chiều cao cột nước là H, vậy thời gian để nước dâng từ đáy tới máng thu t tính
theo phương trình:
t = (3.14)
Mặt
khác t chính là thời gian lưu nước tính bằng:
t = (3.15)
Trong
đó: V =
thể tích nước trong vùng lắng
Q = lưu
lượng
Vì
thể tích vùng lắng V = HA, trong đó A là thiết diện đáy, phối hợp với pt. (3.14) và (3.15) ta có:
Từ đây rút ra biểu thức xác định vo:
vo
= (pt Hazen)
Cơ
sở để tính bể lắng đứng là phương trình Stoke (pt. 3.12) nghĩa là tốc độ dòng
nước dâng phải nhỏ hơn tốc độ lắng bùn. Sơ đồ bể lắng đứng cho ở hình 3.3.
Hình 3.3
- Sơ đồ bể lắng đứng
Người ta thường thiết kế bể lắng đứng
với diện tích mặt nước không quá 100 m2, có tỷ lệ giữa đường kính và
chiều cao ít hơn hoặc bằng 1,5. Trên hình 3.3 là sơ đồ bể lắng đứng. Đáy chóp
của nó có độ dốc ít nhất là 500 nếu người ta xử lý nước bằng chất
keo tụ, và 600 trong trường hợp xử lý độ cứng.
Ở tâm bể lắng đứng là ống hình trụ
đóng vai trò buồng phản ứng. Nước theo ống dẫn vào buồng phản ứng (nếu cho hoá
chất keo tụ) và theo ống trụ đi xuống, toả đều ra 4 phía rồi đi lên.
Việc thu nước được thực hiện nhờ hệ
máng thu bố trí ở xung quanh gần mép trên bể. Nếu diện tích mặt nước của bể lớn
hơn 12 m2 thì nên bố trí thêm các máng thu theo đường hướng tâm, nếu
nó lớn hơn 30 m2 thì cần 6 ¸ 8 máng thu. Máng thu nước nên có mặt tràn hình
răng cưa hoặc đục lỗ f 20 ¸ 30 mm để nước qua. Diện tích máng thu tính sao cho
tốc độ nước chảy trong máng bằng 0,6 ¸ 0,7 m/s. Cặn ở đáy bể được xả định kỳ nhờ áp suất
thủy tĩnh bằng cách mở van xả đáy hoặc dùng bơm hút bùn.
Tốc độ dâng nước trong bể lắng đứng
phải nhỏ hơn tốc độ lắng cặn (xác định bằng thực nghiệm) và không lớn hơn 0,6
mm/s (bảng 3.2).
Bảng 3.2 - Sự phụ thuộc tốc độ dâng nước v (mm/s)
trong lắng đứng vào chất lượng nước thô khi xử lý phèn
Loại nước
|
v (mm/s)
|
Nước màu,
CLL < 50 mg/l
|
0,35 ( 0,45
|
Nước đục, CLL = 50 ( 250
|
0,45 ( 0,50
|
> 250
|
0,50 ( 0,60
|
Nước đục không đánh phèn
|
0,12 ( 0,15
|
Ghi chú: nếu có chất tạo bông, v tăng thêm 15 ( 20%
Ứng dụng: Trạm có công suất
không quá 3000 m3/ngay, khi xử lý bằng chất keo tụ. Lắng đứng hay dùng trong
công nghệ xử lý nước cấp quy mô nhỏ.
2.4.3.2. Bể lắng ngang
- Hình dạng, cấu tạo: Hình
hộp chữ nhật làm bằng gạch hoặc bêtông cốt thép. Tỷ lệ: L:H >= 10. Độ dốc ít
nhất 0.02 theo chiều dọc và 0.05 theo chiều ngang
- Nguyên lý hoạt động: Nước
chuyển động theo chiều ngang từ đầu bể đến
cuối bể. Với tốc độ nước v đều khắp mọi điểm trong vùng lắng và giả sử các hạt đều cùng một vị trí xuất phát (điểm
vào bể), khi đó dựa vào kích thước của từng hạt mà hạt đó có thể lắng được hay
không. Xét một hạt có quỹ đạo rơi (có dạng đường thẳng- xét trường hợp lí tưởng)
đúng bằng chiều dài của đáy bể và có độ cao bằng chiều cao bể tương ứng với tốc
độ lắng của hạt là Vp khi đó hạt đó lắng được. Như vậy nếu các hạt cặn có tốc độ
lắng nhỏ hơn Vp sẽ không lắng được.
- Thông số
thiết kế:
Hình 3.4-
Mô hình bể lắng ngang
1-nước thô vào, 2- máng thu
nước, 3 - xả cặn bùn
- Các thông số thiết kế
cơ bản của bể lắng ngang
- Thời gian lưu không ít hơn 4 giờ
- Tốc độ nước có keo tụ v = 3 ¸ 13 mm/s. Nếu không sử dụng chất keo tụ phải giảm v
còn 2 ¸ 3 mm/s.
- Tỷ lệ L : B ³ 10
- Chiều cao H = 3,0 ¸ 5,0 m
- Độ
dốc theo chiều nước chảy tối thiểu 0,02; theo phương ngang tối thiểu 0,05.
- Ứng
dụng: áp dụng cho
trạm xử lý có công suất 3000m3/ngày.đêm (nếu dùng phèn), và công
suất bất kỳ cho trạm xử lý không dùng phèn.
2.4.3.3. Bể lắng li tâm
-
Hình dạng, cấu tạo: Hình trụ tròn, đáy côn, có cần gạt thu bùn
-
Nguyên lí hoạt động:
Hình 3.5- Bể lắng ly tâm
-
Nước vào thuờng được đưa theo ống trung tâm, từ khoang trung tâm nước theo các
tia bán kính chảy vào các máng thu bố trí quanh bể hình tròn. Bể lắng ly tâm
thường được áp dụng cho các nguồn nước có hàm lượng SS cao, nhất là trong xử lí
nước thải. Để thu gom bùn bể được trang bị cần gạt bùn cơ giới gạt sát đáy đốc
dồn bùn về hố thu ở tâm bể. Từ đây bùn
được xả bằng áp suất thủy tĩnh hoặc bằng bơm hút bùn (hình 3.5).
Đường
kính bể lắng ly tâm thường gặp từ 5 ¸ 60 m, độ sâu 3 ¸ 5 m ở tâm và 1,5 ¸3m ở thành bể. Tốc độ quay của
cần gạt bùn là 3 ¸ 3,5 v/h với động cơ đẩy cỡ
1,5 ¸ 2,0 kW
-
Thông số thiết kế: Dựa
trên cơ sở thực nghiệm
- Ứng dụng: áp dụng
khi lượng cặn lớn
2.5. Quá trình Lọc
Khái niệm: Lọc là quá trình làm sạch nước thông qua
các vật liệu lọc nhằm tách các hạt cặn lơ lửng, các thể keo tụ và cả vi sinh vật
trong nước, kết quả là sau quá trình lọc chất lượng nước tốt hơn cả về mặt lý học,
hoá học, sinh học.
Trong các hệ xử
lý nước cấp lọc là quá trình quan trọng bậc nhất vì nó trực tiếp quyết định chất
lượng nước sản phẩm, trong xử lí nước thải lọc chỉ áp dụng trong những trường hợp
nhất định. Quá trình lọc được thực hiện ở hai công đoạn trong dây chuyền xử lý:
một là lọc thô ở ngay điểm bắt đầu thu nước, khi đó quá trình lọc mang
tính phòng ngừa: chắn rắc, lọc cặn thô, rêu tảo ... để bảo vệ hệ thống xử lý ở
sau và hai là ở công đoạn áp trót, trước khử trùng: lọc để đảm bảo độ
trong - yếu tố hàng đầu của chất lượng nước.
2.5.1.
Lí thuyết lọc
Đối với
các kĩ thuật lọc nước thông thường (không kể lọc màng NF và RO) lọc là quá
trình tách chất rắn (cặn, cặn lơ lửng) ra khỏi nước khi cho nước đi qua môi
trường vật liệu lọc có thể giữ được cặn nhưng cho nước đi qua. Kết quả là thu
được nước trong, không chứa (hoặc chứa rất ít) cặn lơ lửng.
Lọc thông
thường không xử lý được các tạp chất tan như các chất hữu cơ gây màu, mùi (trừ
khi lọc bằng than hoạt tính), các khoáng chất hoà tan. Tuy nhiên nếu tiền xử lý thích hợp vẫn có thể xử
lí được một phần chất hữu cơ tan (ví dụ xử lý một phần chất màu bằng phèn) hoặc
toàn bộ tạp chất (ví dụ: Fe ở dạng sắt (II) hoà tan sau làm thoáng, ô xy hoá
tốt trở thành kết tủa sắt (III) lọc được).
Với sự
xuất hiện của kĩ thuật lọc màng NF và RO, ngày nay kĩ thuật lọc cho phép tách
cả các chất hoà tan ở quy mô phân tử, ion.
Trong dây
chuyền xử lý nước cấp thông thường, công đoạn lọc đóng vai trò quyết định đến
chất lượng sản phẩm và thường đứng áp trót trước công đoạn clo hoá để sát trùng-bảo quản trước khi nước vào bể chứa để bơm vào mạng.
Đối với các kĩ thuật lọc nước thông thường (không kể lọc màng NF và
RO) lọc là quá trình tách chất rắn (cặn, cặn lơ lửng) ra khỏi nước khi cho nước
đi qua môi trường vật liệu lọc có thể giữ được cặn nhưng cho nước đi qua. Kết
quả là thu được nước trong, không chứa (hoặc chứa rất ít) cặn lơ lửng.
Lọc thường
thường không xử lý được các tạp chất tan như các chất hữu cơ gây màu, mùi (trừ
khi lọc bằng than hoạt tớnh), các khoáng chất hoà tan. Tuy nhiờn nếu tiền xử lý thích hợp vẫn có thể xử
lí được một phần chất hữu cơ tan (ví dụ xử lý một phần chất màu bằng phèn) hoặc
toàn bộ tạp chất (ví dụ: Fe ở dạng sắt (II) hoà tan sau làm thoáng, ô xy hóa
tốt trở thành kết tủa sắt (III) lọc được).
Với sự
xuất hiện của kĩ thuật lọc màng NF và RO, ngày nay kĩ thuật lọc cho phép tách
cả các chất hoà tan ở quy mô phân tử, ion.
Trong dây
chuyền xử lý nước cấp thông thường, công đoạn lọc đóng vai trò quyết định đến
chất lượng sản phẩm và thường đứng ở trước công đoạn clo hóa để sát trùng-bảo quản trước khi nước vào bể chứa để bơm vào mạng.
2.5.2.
Các cơ chế lọc và các hiện tượng liên quan
Tùy bản
chất của cặn cần lọc, tuỳ kỹ thuật và vật liệu lọc áp dụng có thể gặp các cơ
chế lọc và hiện tượng sau: lưu giữ, bám dính và hiện tượng đánh thủng…
Các cơ chế lưu giữ
Cơ chế lưu giữ có thể hiểu
là cơ chế “lọc” thuần tuý vật lí được ghi nhận trong trường hợp lọc qua lưới
lọc, màng lọc có kích thước lỗ đã định. Trong trường hợp này lớp lọc hoạt động
theo nguyên lý cái rây bột: hạt cặn nhỏ đi qua, hạt lớn bị lưu giữ lại.
Trong thực tế, hạt nhỏ hơn đường kính lỗ trống cũng có thể bị lưu giữ lại nếu
đồng thời nhiều hạt nhỏ cùng qua một lỗ trống, hoặc hạt cần lọc bị tăng kích
thước do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Trong trường hợp này, các cơ
chế sau có thể lần lượt hoặc đồng thời xuất hiện:
·
Nhiều hạt nhỏ chen nhau cùng qua khe trống nên bị kẹt lại
·
Hạt nhỏ trong khi theo dòng chảy qua lỗ trống bị cọ xát vào lớp vật liệu
lọc rắn và bị giữ lại do lực bề mặt (hấp phụ).
·
Do giá tốc trọng trường, hạt cặn lắng trên bề mặt vật liệu lọc ở khu vực
không có lỗ trống...
Những cơ chế này xuất hiện
trong cả kỹ thuật lọc màng và kỹ thuật lọc bằng lớp vật liệu lọc dạng hạt.
Cơ chế bám dính
Khi tốc độ dòng chảy không
lớn, các lực bề mặt có thể gây ra sự bám dính các hạt cặn trên bề mặt vật liệu
lọc. Bản chất các lực bề mặt khá phức tạp, phổ biến là lực hút tĩnh điện và lực
Van dec Val (Van der Waals).
Hiện tượng đánh thủng
Trong quá trình lọc qua lớp
vật liệu lọc hạt, do các cơ chế nêu trên nên khe trống giữa các hạt vật liệu
lọc bị lấp đầy dần bởi các hạt cặn bị lưu giữ hoặc bám dính. Như vậy thiết diện
chảy thực tế bị thu hẹp dần, tốc độ dòng chảy qua khe sẽ tăng và kéo theo các
hạt cặn nhỏ vào sâu trong lớp vật liệu lọc hạt, thậm chí hạt cặn bị kéo theo
nước lọc. Trường hợp này nước lọc giảm chất lượng, ta nói lớp lọc bị đánh
thủng.
Hiện tượng “tắc” và sự phục
hồi lớp vật liệu lọc
Hiện tượng “tắc” thiết bị
lọc do cặn bít dần các khe, lỗ trống mà nước có thể chảy qua theo các cơ chế đã
nêu. Trong trường hợp này vẫn có thể tiếp tục lọc bằng cách tăng áp suất. Ví dụ: nếu lọc trọng lực như đối với
bể cát ta có thể để mực nước trên lớp vật liệu lọc dâng tới mức độ vài mét. Đối
với các thiết bị lọc áp lực với lớp vật liệu lọc là cát người ta có thể
nâng áp lực tới vài ba atm.
Thông thường, khi thiết kế
thiết bị lọc người ta chấp nhận một mức độ “tắc” nhất định. Để vượt qua hiện
tượng này người ta tăng mực nước hoặc mức áp áp vào lớp vật liệu lọc để giữ tốc
độ lọc không đổi.
Khi tổn thất áp vượt quá mức
độ đã định (do sự tích luỹ lớp bùn cặn) cần phục hồi lại lớp vật liệu lọc về
trạng thái ban đầu bằng cách rửa sạch lớp vật liệu lọc khỏi bùn cặn, ta gọi là rửa
lọc. Cách rửa phụ thuộc vào loại vật liệu và kỹ thuật lọc áp dụng.
Rửa lọc: Bằng kĩ thuật Rửa
ngược là phổ biến nhất và là kỹ thuật duy nhất đối với các thiết bị lọc
dùng lớp vật liệu dạng hạt. Môi trường để rửa thường là nước sạch và ở các trạm
lớn là hỗn hợp khí - nước. Đối với các loại màng lọc như màng lọc micro, nano
... sau rửa ngược thường phải xử lý hoá chất bổ xung.
Rửa ngược được thực hiện theo chiều ngược lại như sau: đóng van thu nước sạch, bơm
nước sạch hoặc hỗn hợp khí – nước với cường độ rất cao vào đáy bể qua hệ phân
phối đều, nước rửa cường độ cao sẽ làm nâng các hạt vật liệu lọc lên, lớp hạt
“sôi” lên , cọ vào nhau để rửa sạch bùn bám trên bề mặt, nước bùn rửa được thu
gom qua các máng phân phối vào túi chứa bùn, qua van xả ra ngoài. Quá trình kết
thúc khi nước rửa trở nên trong, không chứa bùn.
Để kiểm soát hoạt động của
một hệ lọc ta cần theo dõi một trong hai thông số hoặc cả hai, đó là tổn
thất áp lực khi lọc và độ đục của nước sản phẩm.
2.5.3. Phân loại
Kĩ thuật lọc cát thường được
phân loại theo tốc độ lọc, theo động lực của quá trình lọc, theo chiều của dòng
chảy, theo số loại vật liệu lọc.
Về môi trường vật liệu lọc có
hai nhóm chính:
Nhóm vật liệu
lọc dạng hạt, môi trường lọc là lớp vật liệu lọc dày
Nhóm vật liệu
dạng màng, môi trường lọc có độ dày không đáng kể.
Theo tốc độ lọc ta có:
Lọc nhanh: khi tốc độ lọc khoảng lớn hơn 5 m/h
Lọc chậm: khi tốc độ lọc bằng 0,1 ¸ 0,3 m/h
Theo động lực của quá trình
lọc
Để nước qua được lớp cát dày
nó cần có thế năng nhất định, thế năng này có thể do bản thân trọng lượng cột
nước hoặc do bơm nén, như vậy ta có:
Lọc tự
chảy hay lọc
trọng lực: nước chảy nhờ trọng lực
Lọc áp
lực: nuớc chảy nhờ
bơm nước tạo áp
Theo loại vật liệu lọc:
Lọc một
lớp: chỉ dùng một
loại vật liệu lọc
Lọc đa
lớp: dùng hai loại
vật liệu lọc khác nhau vể chất trở lên
Phân loại theo chiều dòng chảy ta có:
Lọc xuôi: nước chảy từ trên xuống, thu nước lọc ở đáy
Lọc ngược: nước chảy từ dưới lên, thu nước lọc trên miệng bể
Theo đặc thù của kỹ thuật lọc và cách hình thành màng lọc
thứ cấp:
Lọc tiếp xúc;
Lọc nổi;
Lọc
diatomit.
2.5.4.
Các kỹ thuật lọc phổ biến trong xử lí nước cấp
2.5.4.1. Lọc nhanh
Giới thiệu
chung: Trong quá trình lọc nhanh, nước cần xử lí đi
qua lớp hạt có kích thước trung bình-lớn,vận tốc cao. Người ta chia bề dày lớp
vật liệu lọc thành nhiều lớp mỏng với kích thước khác nhau, ban đầu đa số cặn bẩn
trong nước tiếp xúc với bề mặt trên cùng của lớp vật liệu, theo thời gian bề
dày của lớp màng cặn tăng dần, độ bề liên kết của lớp màng và vật liệu lọc yếu
đi đến lúc lực này bị phá vỡ thì một phần cặn bẩn bị cuốn sâu hơn xuống các lớp
hạt lọc bên dưới và lâu dần thì cần phải thay lớp vật liệu khác.
Vận
tốc lọc nhanh thông thường là 1,5.10-3 m/s. Nước đưa qua lớp vật liệu
lọc từ trên xuống hoặc từ dưới lên, sử dụng dòng chảy từ trên xuống có ưu điểm là tạo được động lực cho quá trình
nhờ chênh lệch áp suất trước và sau khi qua lớp vật liệu lọc nhờ áp lực trọng
trường. Nhược điểm của phương pháp này
là cần áp lực mạnh của dòng nước từ dưới lên khi rửa lọc, các hạt nhỏ bị đẩy
lên trên, các hạt to giữ lại ở phía dưới, khi nước cần lọc tiếp xúc với hạt bé
trước thì dễ bị tắc mao quản lọc.
Cấu tạo bể lọc
Gồm
các thành phần: ống thu nước bẩn, ngăn trung gian, máng tràn, vật liệu lọc,
ngăn thu nước sạch, ống thu nước sạch.
- Vật liệu lọc:
thường dùng là cát tư nhiên, cát thạch anh nghiền, đá hoa nghiền…Tiêu chuẩn lựa
chọn vật liệu lọc:
+/ Bảo đảm thành
phần hạt theo yêu cầu phân loại;
+/ Bảo đảm độ đồng
đều về kích thước hạt;
+/ Độ bền cơ học
cao;
+/ Độ bền hoá học
đảm bảo.
Nguyên lí hoạt động
Sơ đồ nguyên lí bể lọc trọng lực với lớp vật liệu lọc
dạng hạt
1- Van chỉnh lưu lượng nước
vào ; 2- Van xả nước bùn rửa lọc; 3- Van chặn khi xả rửa hoặc thu nước và mở
khi xả lọc đầu và xả kiệt; 4- Van mở khi thu nước sạch; 5- Van nối nước rửa lọc
hoặc ống do tổn thất áp DP (nếu có),
hoặc chống e khí.
Nước
thô (từ nguồn hoặc từ bể lắng để loại bớt SS, theo TCN 33-85, SS khi vào bể lọc
nhanh phải không lớn hơn 10 mg/L) theo đường dẫn vào bể qua ngăn trung gian
(đôi khi gọi là túi). Trên đường đi có van (1) để kiểm soát lưu lượng
nước vào. Ngăn trung gian có chức năng nhận và phân phối nước vào đều khắp bề
mặt bể lọc thông qua các máng tràn (không vẽ trên h. 9.3). Nước lọc đi từ trên
xuống, qua lớp vật liệu lọc dày khoảng một mét, cặn bùn được giữ lại ở phí trên
và trong lớp cát, nước trong đi vào hệ thu gom, theo ống dẫn qua van (4) vào bể
chứa nước sạch. Lúc mới lọc nước ra hơi đục sẽ được xả bỏ (gọi là xả lọc đầu)
qua đường van (3). Khi bể tắc hoặc bị đánh thủng phải rửa lọc.
2.5.4.2.
Lọc chậm
Giới
thiệu: Lọc chậm áp dụng nhiều cho
xử lí nước uống và nước cấp, vận tốc chảy rất thâp: 0.03.10-3-0,15.10-3
m/s do đó mỗi chu kí lọc chậm thường kéo dài đến vài tháng hoặc lâu hơn, lọc chậm.vì vậy bên cạnh khả năng tách cặn lơ lửng như nguyên lí
lọc nhanh mà không cần hoá chất keo tụ, lọc chậm có khả năng làm trong nước tốt
hơn nhiều nhờ quá trình lọc sinh học. Lọc chậm rất thích hợp ở khu vực nông
thôn với điều kiện vận hành, bảo dưỡng đúng phương pháp. Nếu áp dụng ở quy mô
lớn cũng sẽ cho kết quả rất tốt về về mặt chất lượng nước.
Quá trình lọc bắt đầu từ lớp
nước trên lớp vật liệu lọc đến sâu vào trong lớp vật liệu lọc, quan trọng nhất
là các quá trình sinh học bắt đầu từ lớp màng lọc thứ cấp được hình
thành từ cặn và vi sinh vật tích luỹ trong hai-ba tuần đầu tiên trên mặt cát.
Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa lọc chậm và lọc nhanh. Nhờ lớp màng lọc này
và các quá trình vi sinh mô tả sau đây nước lọc chậm có chất lượng cao không
những về độ trong (do lọc tốt cặn lơ lửng) nhờ lớp cát mịn mà còn sạch một phần
chất hữu cơ và có thể loại tới 95-99% về tổng vi khuẩn và 20-40% về độ ôxy hoá.
Cấu tạo bể lọc
chậm
Hệ thống lọc chậm gồm 3 khối chính (như hỡnh vẽ)
Sơ đồ cấu tạo nguyên lý của hệ lọc chậm
1. Hệ cấp nước thô;
2. Bể lọc gồm hai bộ phận:
Lớp vật liệu lọc và lớp đệm;
Hệ thu nước;
3. Bể chứa nước sạch
Do tốc độ lọc chậm, trong hệ
không nhất thiết phải quan tâm quá mức đến hệ phân phối nước vào. Ngoài ra cần
có hệ thống van điều chỉnh lưu lượng, xả kiệt ...
Điểm khác cơ bản của hệ lọc
chậm so với lọc nhanh là lớp cát lọc. Cát lọc chậm nhỏ hơn nhiều so với cát lọc
nhanh, kích thước cát lọc chỉ xung quanh 0,3 mm. Cấu tạo lớp cát lọc và vật
liệu đệm gần giống bể lọc nhanh.
Do tốc độ lọc chậm, trong bể
lọc đồng thời xảy ra các quá trình làm sạch nước sau đây:
Quá trình
sa lắng
Quá trình
hấp phụ
Quá trình
lọc
Quá trình xử lý sinh học.
Đáy bể với chức năng thu gom
nước lọc được xây dựng bằng cách xếp các tấm beton hoặc gạch so le để tạo các
khe hở cho nước chảy như hìn. Khe hở phải đủ nhỏ để không lọt vật liệu đệm.
Nguyên lí hoạt động:
Bể lọc thường cao khoảng 3 m với lớp cát lọc dày 1,0 ¸ 1,2 mét. Cát lọc là cát mịn, có kích thước hiệu quả 0,15
¸ 0,35 mm, nhỏ hơn nhiều so với cát lọc nhanh.
Quá trình lọc mô tả như sau
Nước thô được bơm P1
đẩy qua van V1 vào túi phân phối T, từ đây nước vào bể, được lọc qua
lớp cát mịn với tốc độ rất chậm: 0,1 ¸ 0,3 m/h.
Khi mới khởi động, tốc độ
lọc chỉ được hiệu chỉnh ở mức 1/2 vận tốc thiết kế và tăng dần trong 12 giờ đầu
tiên tới vận tốc thiết kế, lượng nước đầu này phải xả bỏ. Sau 12 đến 36 giờ
(nếu dùng cát mới càng phải kéo dài giai đoạn này để vi sinh phát triển càng
lâu càng tốt, có thể tới 2 ¸3 tuần)
bắt đầu thu nước lọc.
Trong quá trình lọc, lớp
vật liệu lọc bị tắc dần, trở lực tăng dần. Để giữ tốc độ lọc ổn định cần nâng
dần mức nước dư trong bể lọc.
2.5. Sát trùng
Định nghĩa
- Khử trùng là quá trình tiêu diệt các tác nhân
gây bệnh trong nước.
Đối với các chất sát trùng
nước cấp có 2 chức năng: tiêu diệt các mầm gây bệnh và bảo vệ hệ thống dự trữ và phân phối nước
Các tác nhân sát
trùng
-
hoá chất: clo, các hợp chất chứa clo hoạt
động, ozon, axit và bazơ,…
-
các tác nhân vật lý : nhiệt, bức xạ UV,
lọc và lắng
-
bức xạ : điện từ
Trong đó 2 tác nhân phổ
biến nhất là clo (và các hợp chất clo hoạt động) và ozon. Axit và kiềm đôi
khi cũng áp dụng vì ở pH >11 hoặc pH
<13 vi khuẩn cũng bị ức chế thậm chí phân huỷ. Ngoài các tác nhân đã nêu,
brom, iot, phenol, ancol và hydroperoxit cũng thường được sử dụng ở quy mô nhỏ,
các trường hợp riêng biệt. Nói chung chất sát trùng phải là chất oxi hoá, càng
mạnh càng tốt. Về khía cạnh các phương pháp vật lý phổ biến nhất là hai tác
nhân nhiệt và ánh sáng (nhất là tia cực tím). UV cũng như ozon không có tác
dụng kéo dài, hơn nữa chi phí ban đầu cao nên chưa phổ biến rộng. Khi sử dụng
UV, yếu tố SS giảm mạnh.
2.5.1. Các tiêu chuẩn lựa chọn chất khử trùng
Vì tất cả các phương pháp và các chất khử
trùng không phải là tương đương nhau nên
cần phải chọn phương pháp thích ứng nhất có tính đến các điều kiện đặc biệt nào
đó (các đặc tính và việc sử dụng nước, loại vi sinh vật cần loại bỏ, chất lượng
nước cấp,…). Một chất khử trùng và một phương pháp khử trùng cần phải thoả
mãn :
-
Không độc với người và động vật
-
Độc với VSV ở nồng độ thấp
-
Phải hoà tan trong nước
-
Tạo với nước thành một dung dịch đồng nhất
-
Có hiệu quả ở nhiệt độ nước tiêu thụ bình thường
(từ 0-250C)
-
Ổn định để dễ dàng duy trì một nồng độ dư nào đó
trong một thời gian dài
-
Không tác dụng với các chất hữu cơ khác và chất
hữu cơ của các VSV
-
Không phá huỷ kim loại cũng như không làm hỏng
quần áo khi giặt
-
Khử các mùi
-
Có số lượng lớn và được bán với giá tiếp cận
được
-
Dễ dàng vận hành và không có nguy hiểm đối với
người vận hành
-
Cho phép đo dễ dàng nồng độ và do đó kiểm tra
chính xác nồng độ của chúng
2.5.2. Một số tác nhân khử trùng thường gặp
Clo
Các
chất hoá học được sử dụng nhiều nhất để khử trùng clo là: khí clo, các
hypoclorit natri NaOCl, các hipoclorit canxi Ca(OCl)2, các
monocloramin NH4Cl và đioxit clo ClO2. Trong số các sản
phẩm này, chính clo ở dạng khí là chất mà người ta dùng nhiều nhất để khử trùng
nước sạch. Trong các trạm xử lý nước nhỏ người ta hay dùng hypoclorit vì các
chất này dễ sử dụng mà ít gây nguy hại cho người sử dụng. Cloramin tác dụng
chậm trong nước, od đó người ta sử dụng chúng ở những nơi có thể đảm bảo thời
gian tiếp xúc tương đối lâu. Từ năm 1974, người ta sử dụng chủ yếu dioxit clo
do khả năng khử trùng, oxy hoá các chất hữu cơ và khử được một phần lớn các
mùi, vị mà không sinh ra các chất gây ung thư. Tuy nhiên dioxit clo là một khí
không ổn định nên phải sản xuất ngay tại nơi sử dụng.
+Thiết kế hệ clo hoá:
- Để thiết kế cần chọn
trước dạng clo sẽ dùng, phương pháp định lượng, sau đó tính kích thước bể phản
ứng, chọn hệ kiểm soát và các thiết bị phụ trợ
- Trên thị trường, clo có
một số dạng sau: clo lỏng nén trong các bình (bom) thép. Khi sử dụng clo loại
này phải có hệ thiết bị xả clo ở nhiệt độ phòng, khi đó clo sẽ chuyển về dạng
khí, hoà tan clo trong nước sạch để có dung dịch clo gốc rồi định lượng dung
dịch clo vào nước cần xử lý. Đây là dạng clo rẻ nhất nhưng khó dùng nhất (cần
thiết bị pha và định lượng chuyên dụng, khá đắt).
- Dạng clo phổ biến thứ
2 là dạng bột, ví dụ canxi hypoclorơ,
trước khi sử dụng sẽ pha thành các dung dịch trong các bồn plastic
- Dạng thứ 3 hay gặp là
natri hypoclorơ. Đây là chất tẩy trắng công nghiệp, thường ở dạng lỏng và dung
dịch chỉ chứa tối đa 15% Clo hoạt động. ở Việt Nam nộng độ clo hoạt động ở mức
80g/l
+Ưu điểm của việc sử dụng
clo:
- Khử trùng nước được thực hiện bằng khí clo
được nén vào trong những bỡnh thộp chịu ỏp lực cao và được đưa vào nước nhờ hệ thống van điều chỉnh lượng khí clo
thoát ra. Cách này có ưu điểm tiết kiệm được diện tích sử dụng, thuận tiện
trong việc vận hành
- Clo có rất nhiều ưu
điểm đáp ứng được tiêu chuẩn lựa chọn chất khử trùng nên hiện nay phương pháp
khử trùng bằng clo được dùng nhiều nhất (80%) các phương pháp khử trùng trên
thế giới). Tác dụng khử trùng của các hợp chất có clo hoạt tính chính là ở chỗ
sau khi hoà tan vào nước chúng tạo thành axit hypochlorous (HOCl) và các ion
hypochlorite (OCl-) là những chất khi tiếp xỳc với màng tế bào của
vi sinh sẽ làm cản trở quỏ trỡnh trao đổi chất dẫn đến chúng bị chết.
+ Nhược điểm:
- Khi cho clo vào nước có
thể kéo theo một số hiệu ứng phụ như clo tác dụng với các chất hữu cơ của
nước đôi khi có thể tạo ra các chất gây
ung thư (trihalometan) hoặc gây mùi khó chịu (clorofenolat)
- Clo không đủ mạnh để
loại bỏ hoàn toàn một số VSV như virut và động vật đơn bào.
- Clo là chất độc mạnh do
vậy cần có các biện pháp đảm bảo an toàn nghiêm ngặt
Ozon
Ozon có công thức hoá học
là O3, là một khí không ổn định và khả năng oxi hoá cao. O3
được sử dụng làm chất khử trùng từ đầu những năm 1970.
+ Các tính chất của O3:
- Khả năng oxy hoá: khả năng oxy hoá là đặc
tính rất tốt làm cho nó trở thành một chất hay được sử dụng trong công nghệ xử
lý nước. Thật vậy, ozon làm giảm màu, mùi và vị. Nó còn phá huỷ các chất có
nguồn gốc phenol, oxy hoá các ion sắt và mangan hoà tan biến chúng thành các
ion không tan. Hơn nữa khả năng oxy hóa cao còn phá vỡ các hợp chất hữu cơ của sắt và mangan mà các phương pháp
khử sắt và mangan thông thường không làm được. Mặt khác, trái ngược với clo,
ozon không có tác dụng với nitơ amoniac. Tuy nhiên, một số nghiên cứu mới đây
đã tiết lộ sự ozon hoá một số chất hữu
cơ và một số thuốc trừ sâu có thể tạo thành các chất gây ung thư.
- Khả năng khử trùng: khả năng khử trùng của O3
cao hơn clo từ 10-100 lần và tiêu diệt tất cả các loại VSV. Nó diệt có hiệu quả
đối với các bào tử và các nang là các VSV bền vững nhất.
-
Lượng O3 cho vào nước để khử trùng phụ thuộc vào các loai nước, nhu
cầu oxy hoá các chất hữu cơ và vô cơ. Cũng như đối với clo, cần duy trì một nồng độ ozon dư nào đó sau thời gian tiếp
xúc xác định.
+
Các phương pháp sản xuất O3
Hai
phương pháp sản xuất ozon chính dựa trên tác dụng quang hoá học của các tia cực
tím (phương pháp tạo ozon trong khí quyển) hoặc tác dụng của sự phóng điện dưới
áp suất cao trong không khí khô (phương pháp sử dụng trong công nghiệp). Người
ta cũng có thể sản xuất ozon từ không khí hoặc oxy nguyên chất. Về khối lượng,
hiệu suất của máy phát ozon gần gấp đôi khi là oxy nguyên chất.
+Ưu điểm của việc sát
trùng bằng O3: hoạt tính cao, xử lý được rất tốt cả động vật nguyên
sinh, ít gây mùi khó chịu, không tạo phụ phẩm là các hợp chất cơ clo độc hại.
+ Nhược điểm:
- Nhược điểm lớn nhất: O3là
chất phân huỷ nhanh tạo thành O2 nên thời gian tồn tại trong nước ngắn (20-30p)
=>phải sản xuất ngay tại chỗ để dùng ngay và không có tác dụng bảo vệ hệ
phân phối.
- Trong việc sản xuất O3
giá thành năng lượng điện sử dụng và bảo dưỡng là rất lớn.
Bảng: So sánh khả năng khử trùng
của một số chất khử trùng thường gặp dựa vào hệ số diệt vi sinh
Chất khử trùng
|
Vi khuẩn
|
Virut
|
Bào tử
|
Ozon (O3)
|
500
|
5
|
2
|
HOCl
|
20
|
1,0
|
0,05
|
OCl-
|
0,2
|
< 0,02
|
< 0,0005
|
NH2Cl
|
0,1
|
0,005
|
0,001
|
II. TỔNG QUAN VỀ NGUỒN NƯỚC NGẦM
1. Tổng quan về nguồn nước ngầm
1.1. Sơ đồ nguồn nước ngầm
Có rất nhiều phương pháp để xử lý nước ngầm, tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như: nhu cầu cấp nước, tiêu chuẩn dùng nước, đặc điểm của nguồn nước ngầm, các điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội… mà chúng ta sẽ lựa chọn công nghệ xử lý nước ngầm sao cho phù hợp.
1.2 Tổng
quan về nguồn nước ngầm
Việt nam là
quốc gia có nguồn nước ngầm khá phong phú về trữ lượng và khá tốt về chất lượng.
Nước ngầm tồn tại trong các lỗ hổng và các khe nứt của đất đá, được tạo thành trong giai đoạn trầm tích đất đá hoặc do sự thẩm thấu, thấm của nguồn nước mặt, nước mưa… nước ngầm có thể tồn tại cách mặt đất vài mét, vài chục mét, hay hàng trăm mét.
Đối với các hệ thống cấp
nước cộng đồng thì nguồn nước ngầm luôn luôn là nguồn nước được ưa thích. Bới
vì, các nguồn nước mặt thường hay bị ô nhiễm và lưu lượng khai thác phải phụ
thuộc vào sự biến động theo mùa. Nguồn nước ngầm ít chịu ảnh hưởng bởi các tác
động của con người. Chất lượng nước ngầm thường tốt hơn chất lượng nước mặt nhiều.
Trong nước ngầm hầu như không có các hạt keo hay các hạt lơ lửng, và vi sinh,
vi trùng gây bệnh thấp.
Một số đặc điểm khác nhau giữa nước ngầm và nước mặt:
Thông số
|
Nước ngầm
|
Nước bề mặt
|
Nhiệt độ
|
Tương đối ổn định
|
Thay đổi theo mùa
|
Chất rắn lơ lửng
|
Rất thấp, hầu như không có
|
Thường cao và Thay đổi theo
mùa
|
Chất khoáng hòa tan
|
Ít thay đổi, cao hơn so với nước mặt.
|
Thay đổi tùy thuộc chất lượng đất, lượng mưa
|
Hàm lượng Fe2+,Mn2+, nước
|
Thường xuyên có trong
|
Rất thấp, chỉ khi có nước ở sát dưới đáy hồ.
|
Khí
CO2 hoà tan
|
Có
nồng độ cao
|
Rất
thấp hoặc bằng 0
|
Khí
O2 hoà tan
|
Thường
không tồn tại
|
Gần
như bão hoà
|
Khí
NH3
|
Thường
có
|
Có
khi nguồn nước bị nhiễm bẩn
|
Khí
H2S
|
Thường
có
|
Không
có
|
SiO2
|
Thường có ở nồng độ cao
|
Có ở nồng độ trung bình
|
NO3
|
Có ở nồng độ cao, do bị
nhiễm bởi phân bón hóa học
|
Thường rất thấp
|
Vi sinh vật
|
Chủ yếu là các vi trùng do
sắt gây ra
|
Nhiều loại vi trùng, virut gây bệnh và tảo.
|
Các nguồn nước ngầm hầu
như không chứa rong tảo, một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước.
Thành phần đáng quan tâm trong nước ngầm là các tạp chất hoà tan do ảnh hưởng của
điều kiện địa tầng, thời tiết, nắng mưa, các quá trình phong hoá và sinh hoá
trong khu vực. Ở những vùng có điều kiện phong hoá tốt, có nhiều chất bẩn và lượng
mưa lớn thì chất lượng nước ngầm dễ bị ô nhiễm bởi các chất khoáng hoà tan, các
chất hữu cơ, mùn lâu ngày theo nước mưa thấm vào đất.
Ngoài ra, nước ngầm cũng
có thể bị nhiễm bẩn do tác động của con người. Các chất thải của con người và động
vật, các chất thải sinh hoạt, chất thải hoá học, và việc sử dụng phân bón hoá học…
tất cả những loại chất thải đó theo thời gian nó sẽ ngấm vào nguồn nước, tích tụ
dần và làm ô nhiễm nguồn nước ngầm. Đã có không ít nguồn nước ngầm do tác động
của con người đã bị ô nhiễm bởi các hợp chất hữu cơ khó phân huỷ, các vi khuẩn
gây bệnh, nhất là các hoá chất độc hại như các kim loại nặng, dư lượng thuốc trừ
sâu và không loại trừ cả các chất phóng xạ.
2. Quy
trình cơ bản xử lý nước ngầm
Có rất nhiều phương pháp
để xử lý nước ngầm, tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như: nhu cầu cấp nước, tiêu chuẩn
dùng nước, đặc điểm của nguồn nước ngầm, các điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh
tế xã hội… mà Công ty sẽ lựa chọn công nghệ xử lý nước ngầm sao cho phù hợp.
Tuy nhiên có một số quá trình cơ bản có thể áp dụng để xử lý nước ngầm được tóm
tắt như bảng sau:
Quá trình xử lý
|
Mục đích
|
- Làm thoáng
|
-
Lấy oxy từ không khí để oxy hoá sắt và mangan hoá trị II hoà tan trong nước.
-
Khử khí CO2 nâng cao pH của nước để đẩy nhanh quá trình oxy hoá và thuỷ phân
sắt và mangan trong dây chuyền công nghệ khử sắt và mangan.
- Làm giàu oxy để tăng thế oxy hoá khử của
nước, khử các chất bẩn ở dạng khí hoà tan trong nước.
|
- Clo
hoá sơ bộ
|
- Oxy hoá sắt và mangan hoà tan ở dạng
các phức chất hữu cơ.
- Loại trừ rong, rêu, tảo phát triển trên
thành các bể trộn, tạo bông cặn và bể lắng, bể lọc.
- Trung hoà lượng amoniac dư, diệt các vi
khuẩn tiết ra chất nhầy trên mặt lớp các lọc.
|
- Quá
trình khuấy trộn hoá chất
|
- Phân tán nhanh, đều phèn và các hoá chất
khác vào nước cần xử lý.
|
- Quá
trình keo tụ và phản ứng tạo bông cặn
|
- Tạo điều kiện và thực
hiện quá trình dính kết các hạt cặn keo phân tán thành bông cặn có khả năng lắng
và lọc với tốc độ kinh tế cho phép.
|
- Quá
trình lắng
|
- Loại trừ ra khỏi nước các hạt cặn và
bông cặn có khả năng lắng với tốc độ kinh tế cho phép, làm giảm lượng vi
trùng và vi khuẩn.
|
- Quá
trình lọc
|
- Loại trừ các hạt cặn nhỏ không lắng được
trong bể lắng, nhưng có khả năng dính kết lên bề mặt hạt lọc.
|
- Hấp
thụ và hấp phụ
|
- Khử mùi, vị, màu của
nước sau khi dùng phương pháp xử lý bằng than hoạt tính
truyền thống không đạt yêu cầu.
|
- Flo
hoá nước
|
- Nâng cao hàm lượng
flo trong nước đến 0, 6 - 0,9 mg/l để bảo vệ men răng và xương cho người dùng
nước.
|
- Khử
trùng nước
|
- Tiêu diệt vi khuẩn
và vi trùng còn lại trong nước sau bể lọc.
|
- Ổn
định nước
|
- Khử tính xâm thực và tạo ra màng bảo vệ
cách ly không cho nước tiếp xúc trực tiếp với vật liệu mặt trong thành ống dẫn
để bảo vệ ống và phụ tùng trên ống.
|
- Làm
mềm nước
|
- Khử ra khỏi nước các ion Ca2+ và Mg2+ đến
nồng độ yêu cầu.
|
- Khử
muối
|
- Khử ra khỏi nước các cation và anion của
các muối hoà tan đến nồng độ yêu cầu.
|
2.1. Khử
sắt trong nước ngầm
Trạng thái tồn tại tự nhiên
của Sắt trong các nguồn nước ngầm sắt thường tồn tại ở dạng ion, sắt có hoá trị
2 (Fe2+) là thành phần của các muối hoà tan như: Fe(HCO3)2 ; FeSO4… hàm lượng sắt
có trong các nguồn nước ngầm thường cao và phân bố không đồng đều trong các lớp
trầm tích dưới đất sâu. Nước có hàm lượng sắt cao, làm cho nước có mùi tanh và
có màu vàng, gây ảnh hưởng không tốt đến chất lượng nước ăn uống sinh hoạt và sản
xuất.
Do đó, khi mà nước có hàm
lượng sắt cao hơn giới hạn cho phép theo tiêu chuẩn thì chúng ta phải tiến hành
khử sắt.
+
Các Hợp Chất Vô Cơ Của Ion Sắt:
Các
hợp chất vô cơ của ion sắt hoá trị II :
• FeS, Fe(OH)2, FeCO3,
Fe(HCO3)2, FeSO4, v.v…
Các hợp chất vô cơ của ion sắt hoá trị
III :
•
Fe(OH)3, FeCl3… trong đó Fe(OH)3 là chất keo tụ, dễ dàng lắng đọng trong các bể
lắng và bể lọc. Vì thế, các hợp chất vô cơ của sắt hoà tan trong nước hoàn toàn
có thể xử lý bằng phương pháp lý học: làm thoáng lấy oxy của không khí để oxy
hoá sắt hoá trị II thành sắt hoá trị III và cho quá trình thuỷ phân, keo tụ
Fe(OH)3 xảy ra hoàn toàn trong các bể lắng, bể lọc tiếp xúc và các bể lọc
trong.
+
Các phức chất vô cơ của ion sắt với silicat, photphat (FeSiO(OH)3 +3)
•
Các phức chất hữu cơ của ion sắt với axit humic, funvic, …
•
Các ion sắt hoà tan Fe(OH)+, Fe(OH)3 tồn tại tuỳ thuộc vào giá trị thế oxy hoá
khử và pH của môi trường.
•
Các loại phức chất và hỗn hợp các ion hoà tan của sắt không thể khử bằng phương
pháp lý học thông thường, mà phải kết hợp với phương pháp hoá học. Muốn khử sắt
ở các dạng này phải cho thêm vào nước các chất oxy hoá như : Cl-, KMnO4, Ozone,
để phá vỡ liên kết và oxy hoá ion sắt thành ion hoá trị III hoặc cho vào nước
các chất keo tụ FeCl3, Al(SO4)3 và kiềm hoá để có giá trị pH thích hợp cho quá
trình đồng keo tụ các loại keo sắt và phèn xảy ra triệt để trong các bể lắng, bể
lọc tiếp xúc và bể lọc trong.
2.2.
Phương pháp khử sắt trong xử lý nước ngầm
2.2.1. Phương
Pháp Ôxy Hoá Sắt
Nguyên
lý của phương pháp này là oxy hoá sắt (II) thành sắt (III) và tách chúng ra khỏi
nước dưới dạng hyđroxyt sắt (III). Trong nước ngầm, sắt (II) bicacbonat là một
muối không bền, nó dễ dàng thuỷ phân thành sắt (II) hyđroxyt theo phản ứng:
Fe (HCO3)2 + 2H2O → Fe(OH)2 + 2H2CO3
Nếu
trong nước có ôxy hoà tan, sắt (II) hyđrôxyt sẽ bị ôxy hoá thành sắt (III)
hyđrôxyt theo phản ứng:
4Fe(OH)2 + 2H2O + O2 → 4Fe(OH)3↓
Sắt
(III) hyđrôxyt trong nước kết tủa thành bông cặn màu vàng và có thể tách ra khỏinước
một cách dễ dàng nhờ quá trình lắng lọc. Kết hợp các phản ứng tr ên ta có phản ứng
chung của quá trình oxy hoá sắt như sau:
4Fe2+ + 8HCO3 + O2 + H2O → 4Fe(OH)3 + 8H+ + 8HCO3
Nước
ngầm thường không chứa ôxy hoà tan hoặc có hàm lượng ôxy hoà tan rất thấp. Để
tăng nồng độ ôxy hoà tan trong nước ngầm, biện pháp đơn giản nhất là làm
thoáng. Hiệu quả của bước làm thoáng được xác định theo nhu cầu ôxy cho quá
trình khử sắt.
2.2.2. Khử
sắt bằng quá trình ôxy hoá
Làm
thoáng đơn giản bề mặt lọc
Nước
cần khử sắt được làm thoáng bằng dàn phun mưa ngay trên bề mặt lọc. Chiều cao
giàn phun thường lấy cao khoảng 0,7m, lỗ phun có đường kính từ 5-7mm, lưu lượng
tưới vào khoảng 10 m3/m2.h. Lượng ôxy hoà tan trong nước sau khi làm thoáng ở
nhiệt độ 250C lấy bằng 40% lượng ôxy hoà tan bão hoà (ở 250C
lượng ôxy bão hoà bằng 8,1 mg/l).
Làm thoáng bằng giàn mưa tự nhiên
Nước
cần làm thoáng được tưới lên giàn làm thoáng một bậc hay nhiều bậc với các sàn
rải xỉ hoặc tre gỗ.
Lưu
lượng tưới và chiều cao tháp cũng lấy như trường hợp trên. Lượng ôxy hoà tan
sau làm thoáng bằng 55% lượng ôxy hoà tan bão hoà. Hàm lượng CO2 sau làm thoáng
giảm 50%.
Làm thoáng cưỡng bức
Cũng
có thể dùng tháp làm thoáng cưỡng bức với lưu lượng tưới từ 30 đến 40 m3/h. Lượng
không khí tiếp xúc lấy từ 4 đến 6 m3 cho 1 m3 nước. Lượng
ôxy hoà tan sau làm thoáng bằng 70% hàm lượng ôxy hoà tan bão hoà. Hàm lượng
CO2 sau làm thoáng giảm 75%.
2.2.3. Khử sắt bằng hoá chất
Khi trong nước nguồn có hàm lượng tạp chất hữu cơ
cao, các chất hữu cơ sẽ tạo ra dạng keo bảo vệ các ion sắt, như vậy muốn khử sắt
phải phá vỡ được màng hữu cơ bảo vệ bằng tác dụng của các chất ôxy hoá mạnh. Đối
với nước ngầm, khi hàm lượng sắt quá cao đồng thời tồn tại cả H2S thì lượng ôxy
thu được nhờ làm thoáng không đủ để ôxy hoá hết H2S và sắt, trong trường hợp
này cần phải dùng đến hoá chất để khử sắt.
Biện pháp khử sắt bằng vôi
Khi
cho vôi vào nước, độ pH của nước tăng lên. Ở điều kiện giàu ion OH-, các ion
Fe2+ thuỷ phân nhanh chóng thành Fe(OH)2 và lắng xuống một phần, thế ôxy hoá khử
tiêu chuẩn của hệ Fe(OH)2/Fe(OH)3 giảm xuống, do đó sắt (II) dễ dàng chuyển hoá
thành sắt (III). Sắt (III) hyđroxyt kết tụ thành bông cặn, lắng trong bể lắng
và có thể dễ dàng tách ra khỏi nước. Phương pháp này có thể áp dụng cho cả nước
mặt và nước ngầm. Nhược điểm của phương pháp này là phải dùng đến các thiết bị
pha chế cồng kềnh, quản lý phức tạp, cho nên thường kết hợp khử sắt với quá
trình xử lý khác như xử lý ổn định nước bằng kiềm, làm mềm nước bằng vôi kết hợp
với sôđa.
Biện pháp
khử sắt bằng Clo
Quá
trình khử sắt bằng clo được thực hiện nhờ phản ứng sau:
2Fe(HCO3)2 + Cl2 + Ca(HCO3)2 + 6H2O → 2Fe(OH)3CaCl2 + 6H+ + 6HCO3
Biện
pháp khử sắt bằng Kali Permanganat (KMnO 4)
Khi
dùng KMnO4 để khử sắt, qua trình xảy ra rất nhanh vì cặn mangan (IV) hyđroxyt vừa
được tạo thành sẽ là nhân tố xúc tác cho quá trình khử. Phản ứng xảy ra theo
phương trình sau:
5Fe2+ + MnO4 + 8H+ → 5Fe3+ + Mn2+ + 4H2O
Biện pháp khử sắt bằng cách lọc qua lớp vật liệu đặc biệt
Các
vật liệu đặc biệt có khả năng xúc tác, đẩy nhanh quá trình ôxy hoá khử Fe2+
thành Fe3+ và giữ lại trong tầng lọc. Quá trình diễn ra rẩt nhanh chóng và có
hiệu quả cao. Cát đen là một trong những chất có đặc tính như thế.
Biện pháp khử sắt bằng phương pháp trao đổi ion
Phương
pháp trao đổi ion được sử dụng khi kết hợp với quá trình khử cứng. Khi sử dụng
thiết bị trao đổi ion để khử sắt, nước ngầm không được tiếp xúc với không khí v
ì Fe3+ sẽ làm giảm khả năng trao đổi của các ionic. Chỉ có hiệu quả khi khử nước
ngầm có hàm lượng sắt thấp.
Biện pháp khử sắt bằng phương pháp vi sinh
Một
số loại vi sinh có khả năng ôxy hoá sắt trong điều kiện mà quá trình ôxy hoá
hoá học xảy ra rất khó khăn. Chúng ta cấy các mầm khuẩn sắt trong lớp cáy lọc của
bể lọc, thông qua hoạt động của các vi khuẩn sắt được loại ra khỏi nước. Thường
sử dụng thiết bị bể lọc chậm để khử sắt.
2.2.4. Một
số giai đoạn về công nghệ khử sắt trong nước cấp
Giai đoạn đưa các hoá chất vào nước
Giai
đoạn này gồm có quá trình làm thoáng nước để làm giàu ôxy và khử khí cacbonic
cùng với việc pha trộn hoá chất vào nước như vôi, phèn, clo, ôzôn, kali
permanganate…
Giai đoạn xử lý sơ bộ
Mục
đích của giai đoạn này là nhằm tạo ra những điều kiện cho phản ứng ôxy hoá khử
diễn ra được hoàn toàn, nhanh chóng. Các thiết bị cần thiết cho giai đoạn này
là bể lắng tiếp xúc, bể lọc sơ bộ, bể lọc tiếp xúc, bể lắng ngang hoặc lắng
trong.
Giai đoạn làm sạch
Giai
đoạn này cần đến các bể lọc khác nhau. Tuỳ theo hàm lượng và thành phần sắt
trong nước nguồn cùng với chất lượng nước nguồn mà quyết định quy trình khử sắt
cụ thể, thường được xác định bằng thực nghiệm tại chỗ kết hợp với các kết quả
tính toán sơ bộ. Khi hàm lượng sắt cao trên 6mg/l và cần khử triệt để khí
cacbonic, quy trình khử sắt sẽ bao gồm cả ba giai đoạn trên.
2.2.5. Một
số thiết bị khử sắt thường được sử dụng
Làm thoáng đơn giản trên bề mặt bể lọc
Người
ta dùng giàn ống khoan lỗ phun mưa trên bề mặt lọc, lỗ phun có đường kính 5 đến
7 mm, tia nước dùng áp lực phun lên với độ cao 0,5 đến 0,6m. Lưu lượng phun vào
khoảng 10m3/m2.h. Làm thoáng trực tiếp
trên bề mặt bể lọc chỉ nên áp dụng khi nước nguồn có hàm lượng sắt thấp và
không phải khử CO2.
Tháp làm thoáng tự nhiên
Sử
dụng tháp làm thoáng tự nhiên (giàn mưa) khi cần làm giàu ôxy kết hợp với khử
khí CO 2. Do khả năng trao đổi của O2 lớn hơn CO2 nên tháp được thiết kế cho
trường hợp khử CO2. Giàn mưa cho khả năng thu được lượng ôxy hoà tan bằng 55%
lượng ôxy bão hoà và có khả năng khử được 75-80% lượng CO2 còn lại sau khi làm
thoáng không xuống thấp hơn 5-6mg/l.
Tháp làm thoáng cưỡng bức
Cấu tạo của tháp làm thoáng cưỡng bức cũng gần giống
như tháp làm thoáng tự nhiên, ở đây chỉ khác là không khí được đưa vào tháp cưỡng
bức bằng quạt gió. Không khí đi ng ược chiều với chiều r ơi của các tia nước.
Lưu lượng tưới thường lấy từ 30 đến 40 m3/m2.h. Lượng không khí cấp vào từ 4 đến
6m3 cho 1m3 nước cần làm thoáng.
Bể lắng tiếp xúc
Bể
lắng tiếp xúc có chức năng giữ nước lại sau quá trình làm thoáng trong một thời
gian đã để quá trình ôxy hoá và thuỷ phân diễn ra hoàn toàn, đồng thời tách một
phần cân nặng trước khi chuyển sang bể lọc. Trong thực tế thường lấy thời gian
lưu của nước từ 30 đến 45 phút. Bể lắng tiếp xúc có thể được thiết kế như bể lắng
đứng và thường đặt ngay dưới giàn làm thoáng.
Bể
lọc tiếp xúc hay bể lọc sơ bộ được áp dụng khi hàm lượng sắt trong nước nguồn
cao hoặc cần khử đồng thời cả mangan. Bể lọc tiếp xúc có cấu tạo như các bể lọc
thông thường với lớp vật liệu lọc bằng sỏi , than antraxit, sành, sứ…có kích
thước hạt lớn. Tốc độ lọc thường khống chế trong khoảng 15 đến 20m/h.
Bể lọc cặn sắt
Để
lọc sạch nước có chứa cặn sắt, sử dụng các bể lọc nhanh thông thường. Do khác với
bể lọc cạn bẩn bình thường ở chỗ quá trình ôxy hoá và thuỷ phân sắt con tiếp tục
xảy ra trong lớp vật liệu lọc, nên ngay từ đầu chu kỳ loc, cặn đã bám sẵn trong
lớp vật liệu lọc v à độ chứa cặn của lớp vật liệu lọc sẽ cao hơn.
Vì
vậy, vật liệu lọc có thể lấy cấp phối hạt lớn hơn, đương kính trung bình hạt từ
0,9 đến 1,3 mm, bề dày lớp vật liệu lọc 1,0 đến 1,2m, tốc độ lọc lấy từ 5 đến
10m/h. Do cặn sắt bám chắc nên phải rửa lọc bằng nước và khí kết hợp, lưu lượng
nước rửa thực tế thường dùng từ 10 đến 12 l/m2.s. Nếu sử dụng bể lọc 2 lớp gốm
antraxit và cát thạch anh thì hiệu quả xử lý sẽ cao hơn.
2.2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình khử sắt
Tốc
độ phản ứng của quá trình ôxy hoá và thuỷ phân Fe2+ thành Fe3+ tuỳ thuộc vào lượng
oxy hoà tan trong nước tăng lên. Để oxy hoá 1mg sắt (II) tiêu tốn 0,143mg oxy. Thời
gian oxy hoá và thuỷ phân sắt trên công trình phụ thuộc vào trị số pH của nước
có thể lấy như sau:
Thời gian tối ưu của quá trình keo tụ
pH
|
6,0
|
6,5
|
6,6
|
6,7
|
6,8
|
6,9
|
7
|
≥7.5
|
Thời gian tiếp xúc cần thiết trong bể lắng
và bể lọc (thời gian lưu nước) (phút)
|
90
|
60
|
45
|
30
|
25
|
20
|
15
|
10
|
Thời gian tiếp xúc cần thiết (thời gian
lưu nước) trong bể lọc tiếp xúc (bể lọc I) và bể lọc trong (bể lọc đợt II)
(phút)
|
60
|
45
|
35
|
25
|
20
|
15
|
15
|
5
|
Tốc
độ lọc qua bể tiếp xúc có thể lấy 5 -20 m/h tuỳ thuộc vào thời gian lưu nước cần
thiết và lượng cặn cần giữ lại sao cho qua bể lọc đợt I hàm lượng cặn còn lại
đi qua bể lọc trong (lọc đợt II) ≤ 15mg/l. Tốc độ lọc qua bể lọc trong lấy 3-9
m/h tuỳ thuộc vào chiều dày và cỡ hạt của lớp vật liệu lọc và thời gian lưu nước
cần thiết.
2.2.7. Áp dụng quá trình khử sắt vào việc xử lý nước ngầm để cấp nước cho cộng đồng dân cư nông thôn
Mục đích của việc xử lý nước cấp
Cung
cấp đầy đủ lượng nước cho quá trình sử dụng của người dân và đảm bảo an toàn về
mặt hoá học, vi trùng học…để thoả mãn các nhu cầu về ăn uống, sinh hoạt dịch vụ,
sản xuất…Nước có chất lượng tốt, ngon không chứa các chấy gây đục, gây ra màu,
mùi, vị của nước.
Tóm
lại, là mọi nguồn nước thô sau khi qua hệ thống xử lý phải đạt: “Tiêu chuẩn vệ
sinh đối với chất lượng nước cấp cho ăn uống và sinh hoạt theo tiêu chuẩn– TCVN
5501 – 1991”.
Số liệu cần thiết để thiết kế trạm xử lý khử sắt
Khi
thiết kế trạm xử lý nước cấp có quá trình khử sắt, chúng ta cần phải thu thập
các số liệu như sau: Công xuất hữu ích của
trạm, số giờ hoạt động trong ngày hay công suất giờ. Bơm nước liên tục với lưu
lượng đủ lớn để loại trừ hết nước tồn đọng, sau đó lấy mẫu ngay tại đầu bơm để
phân tích các chỉ tiêu:
1. Độ đục
2.
Độ màu
3. Độ oxy hóa
4. Độ kiềm
5. Độ cứng toàn phần và độ cứng cacbonat
6. pH
|
7. Tổng hàm lượng sắt
8. Hàm lượng Ion sắt hóa trị II
9. Hàm lượng Ion sắt hóa trị II
10. Hàm lượng silic, poliphotphat và các
kim loại
nặng
11. Hàm lượng CO2 tự do
12. Hàm lượng H2S
|
Kết quả thí nghiệm khử sắt tại chỗ theo
phương pháp lý học, hoá học.
Phân loại nước ngầm theo hàm lượng sắt
Phân loại nước ngầm:
Loại nước ngầm
|
Hàm lượng sắt (mg/l)
|
Nước ngầm có hàm lượng sắt thấp
|
0,4 - 10
|
Nước ngầm có hoàm lượng sắt trung bình
|
10 – 20
|
Nước ngầm có hàm lượng sắt cao
|
>20
|
Theo TCVN
|
<0,3
|
Xử lý nước ngầm có hàm lượng sắt thấp (hàm lượng sắt <10 Mg/L)
Công nghệ xử lý: (Làm thoáng đơn giản và lọc)
Điều kiện áp dụng:
1.Tổng hàm lượng sắt: ≤ 10 mg/l;
2. Độ màu của nước khi chưa tiếp xúc với
không khí <15;
3. Hàm lượng SiO2 2- < 2 mg/l;
4. Hàm lượng H2S < 0,5 mg/l;
5. Hàm lượng NH4 + < 1 mg/l;
6. Nhu cầu oxy = độ oxy hóa + 0,47 H 2S +
0,15Fe2+ < 7mg/l;
7. pH ≥7.
Công nghệ của Công ty trong xử lý ngầm
Nước
ngầm đựợc bơm lên tù giếng khoan hay giếng đào được đưa vào làm thoáng đơn giản.
Có thể dùng máng tràn, giàn mưa, ejector thu khí hay bơm nén khí để làm thoang
nước. Quá trình làm thoáng ở đây chủ yếu là cung cấp oxy cho nước. Nước sau khi
làm thoáng được lọc qua một lớp vật liệu lọc. Tại bể lọc Fe2+ và oxy hòa tan sữ
được tách ra và bám trên bề mặt của các vật liệu lọc, tạo nên màng xúc tác bao
gồm các ion oxy, Fe2+, Fe3+. Màng xúc tác sẽ tăng cường quá trình hấp thụ và
oxy hóa Fe do xảy ra trong môi trường dị thể. Trong phương pháp này không đòi hỏi
phải oxy hóa hoàn toàn Fe2+ thành Fe3+
và keo tụ.
Xử lý nước ngầm có hàm lượng sắt cao (hàm lượng sắt > 10 mg/l)
Công
nghệ xử lý: Làm thoáng - Lắng hoặc lọc tiếp xúc - Lọc trong
Điều
kiện áp dụng
1. Độ oxy hoá < (Fe2+/28 + 5), mg/l
2. Tổng hàm lượng sắt: >10 mg/l
3. Tổng hàm lượng muối khoáng <1000 mg/l
4. Hàm lượng SiO2 2- <2 mg/l
5. Hàm lượng H2S <1 mg/l
6. Hàm lượng NH4
+ <1,5 mg/l
7. Nhu cầu oxy = độ oxy hoá + 0,47 H 2S +
0,15Fe2+ <10 mg/l
8. pH < 6,8 thì tính toán thiết bị làm
khoáng theo điều hiện khử khí CO2 nhằm tăng pH.
9. pH > 6,8 thì tính toán thi ết bị làm
khoáng theo điều kiện lấy oxy để khử sắt.
Nước
ngầm được bơm lên từ giếng khoan hay giếng đào được đưa vào làm thoáng bằng dàn
mưa, làm thoáng cưỡng bức để làm thoáng nước. Quá trình làm thoáng ở đây chủ yếu
là cung cấp oxy cho nước. Nước sau khi làm thoáng được dẫn vào bể khuấy trộn và
lắng cặn, trước khi đi vào bể nước được tiếp xúc với hoá chất có tác dụng đẩy
nhanh quá trình oxy hoá hoà tan thành sắt III, nước từ bể lắng được dẫn qua bể
lọc, bể lọc co chứa nhiều lớp vật liệu lọc.Nước sạch sau khi qua bể lọc được khử
trùng bằng dung dịch clorine trước khi cung cấp cho người sử dụng. Để tránh hiện
tượng tắc lọc ở bể lọc, do đó đến chu kỳ chúng ta phải tiến hành rửa lọc bằng
nước (nước + khí). Cặn ở bể lắng được đưa vào bể nén cặn.